Đôi tay khéo léo
Khi loài người bắt đầu đứng thẳng, đôi chi trước vốn chỉ có 2 tác dụng (đi lại và cầm nắm) đã tiến hoá thành đôi tay người đa năng khéo léo.
Công việc chính của phụ nữ lúc đó là cắt cỏ cho gia súc ăn và sử dụng các công cụ. Những ngón tay linh hoạt và nhạy cảm của họ đã tạo ra những sản phẩm thủ công đầu tiên - nồi và chén đất. Điệu bộ đặc trưng của phái nữ là gập khuỷu tay và thả lỏng cổ tay. Điệu bộ này bắt nguồn từ giai đoạn đầu tiến hoá của loài người, khi đó người phụ nữ phải một tay gập khuỷu để bế con, còn tay kia để làm việc khác. Hơn nữa, bế trẻ sát vào ngực trái của mẹ là cách dỗ nín trẻ nhanh nhất nhờ tiếng tim đập trong lồng ngực mẹ. Thói quen này dần dẫn đến hiện tượng đa số chị em phụ nữ đều thuận tay phải. Ở người da trắng và người da đen, nách là nơi có rất nhiều tuyến mồ hôi loại bán huỷ, ngược lại người Mongoloid thì có rất ít.
So với nam giới
Cánh tay của phụ nữ ngắn và mảnh khảnh hơn đàn ông, cánh tay của phụ nữ áp sát thân người hơn vì đôi vai của họ hẹp hơn của đàn ông. Phụ nữ có khuynh hướng khéo tay hơn, nên có khả năng làm việc với độ chính xác cao hơn đàn ông.
Giải phẫu học tay
Con người sử dụng cánh tay theo 3 cách: quăng ném, nâng nhấc và làm cần trục cho bàn tay. Có 3 xương chính ở cánh tay, trong đó lớn nhất là xương cánh tay, xương trụ và xương quay thon nhỏ hơn. Xương trụ và xương quay có sự liên hệ chặt chẽ với nhau để giúp cho bàn tay xoay trở được. Cánh tay được gắn vào thân qua khớp chỏm ở xương vai. Cơ delta giúp cánh tay nâng độ nặng, dơ lên cao và giang ra. Cơ nhị đầu làm cánh tay gập lại, còn cơ tam đầu duỗi thẳng cánh tay ra. Các cơ cánh tay trên có tác dụng xoay cánh tay vào trong. Các cơ cánh tay dưới giúp xoay cẳng tay và chịu trách nhiệm về sức mạnh và sự linh hoạt của bàn tay và cánh tay; các cơ nhỏ ở bàn tay cho phép các ngón tay hoạt động với độ chính xác cao.
Hõm nách
Vùng có lông ở hõm nách chứa rất nhiều tuyến bán huỷ (tuyến tạo mùi đặc trưng). Chất tiết của loại tuyến này nhờn hơn mồ hôi bình thường. Khi tiết ra chúng trở thành tín hiệu gợi dục rất mạnh. Tuy nhiên khi bị quần áo bắt giữ lại, mùi này sẽ chuyển thành chua, hôi và hoàn toàn gây khó chịu mà chúng ta vẫn quen gọi là mùi cơ thể.
Móng tay
Móng tay là một dạng biến đổi của biểu bì (lớp mô trên cùng của da), được làm cứng chắc nhờ một loại protein có tên là chất sừng chúng có nhiệm vụ bảo vệ các đầu ngón tay, ngón chân và chúng hoàn toàn không có sự sống. Mặc dù móng tay không có dây thần kinh nào, nhưng chúng lại cắm sâu vào lớp mô nhạy cảm (có khoảng 17.000 thụ thể xúc giác ở bàn tay; đa số tập trung tại các đầu ngón). Nhờ đó móng tay có thể phát hiện những rung động nhẹ nhất khi sờ vào vật gì đó. Phần móng nhìn thấy được chỉ dày 0,5mm và thường có màu hồng nhạt nhờ sự hiện diện của nhiều mao mạch nuôi nằm ở giường móng. Móng mọc ra từ nền móng nằm dưới da. Ở chân móng thường có hình lưỡi liềm màu trắng gọi là liềm móng, có khi nó bị tiểu bì che khuất. Trung bình móng tay cần 6 tháng để mọc từ gốc ra đến đầu ngón, ngón chân thì lâu gấp đôi.
Các dấu hiệu bằng tay
Có một số dấu hiệu bằng tay đã trở nên phổ biến khắp thế giới. Những dấu hiệu đó bao gồm vòng tay ôm, giơ cao tay khỏi đầu khi vui mừng chiến thắng, giơ tay đầu hàng, vẫy tay và bắt tay.
Lòng bàn tay có màu nhạt nên các dấu hiệu bằng tay dễ được nhận thấy (mặc dù ở người có nước da sáng thì điều này kém rõ rệt hơn). Ví dụ, lòng bàn tay phẳng giơ cao hàm ý nói “tránh xa ra”, đặt bàn tay lên ngang trán là cách chào trịnh trọng theo kiểu chào nhà binh, còn vẫy bàn tay là cách chào thông thường khi gặp người quen. Hình thức cao cấp của giao tiếp bằng tay là ngôn ngữ tay của người điếc. Các dấu hiệu bằng ngón tay khác nhau tuỳ theo ngón ra dấu hiệu và cách ra dấu hiệu. Ngón trỏ thường được dùng để chỉ trỏ - ví dụ chỉ hướng, hoặc gây sự chú ý, như khi gọi hầu bàn.
Trong những bức hoạ về chủ đề tôn giáo trước đây, hình ảnh người phụ nữ có ngón út cong lại biểu thị cho sự độc lập cao độ về giới tính. điệu bộ này được các thành viên của phong trào giải phóng phụ nữ cuối thế kỷ 19 sử dụng bằng cách cong ngón tay út khi uống trà bằng tách.
St