Triệu chứng của bệnh HIV giai đoạn cuối
Triệu chứng của bệnh trĩ giai đoạn đầu - những điều cần biết
Triệu chứng của bệnh trĩ giai đoạn đầu và cách chữa đơn giản nhất
Triệu chứng của bệnh trĩ giai đoạn đầu và cách chữa trị
Trẻ 4 tháng tuổi biết làm những gì và cách chăm sóc bé giai đoạn này
Trong các tuần cuối của thai kỳ, rất ít khi có trục trặc gì xảy ra. Từ tuần thứ 32 trở đi, mối quan tâm chính của bác sĩ là sự tăng trưởng không ngừng của thai nhi và tình hình sức khoẻ của người mẹ. Những đe doạ có thể xảy ra là tăng huyết áp, mà điều này có thể báo trước cho bạn chứng tiền sản giật; ngừng tăng trọng, có nghĩa là thai nhi ngừng phát triển. Chính vì lẽ đó, bác sĩ sẽ khám cho bạn thường xuyên hơn, có thể cứ hai tuần một lần từ tuần thai thứ 32 đến tuần 36, sau đó tuần nào cũng khám cho bạn cho đến khi bạn sinh.
Một trong số những điều bạn quan tâm ở cuối thai kỳ là sự khó chịu trong người. Khi bụng của bạn càng lúc càng lớn hơn thì việc đứng ngồi bình thường cũng sẽ trở nên khó chịu. Nếu bạn nằm ngữa trên giường, sức nặng của thai nhi sẽ đè ép lên các mạch máu chính và các dây thần kinh nằm sát với xương sống, làm cho lưng bạn bị tê đi và đau âm ỉ, nó cũng có thể khiến bạn bị choáng váng và khó thở. Bạn hãy lưu ý đến cách nằm khi ngủ và chọn tư thế ngủ sao cho bạn được thoải mái nhất, đôi lúc bạn nên dùng gối hoặc đệm để lót cho cơ thể được êm ái.
1. Kỹ thuật kéo căng rồi thả lỏng
Các kỹ thuật giúp thư giãn tốt sẽ phối hợp sự thả lỏng ở đầu óc và cả cơ thể bằng việc hít thở đều và sâu. Chúng rất có lợi cho bạn nếu bắt đầu thực hành những kỹ thuật này sớm để tới giai đoạn cuối thai kỳ chúng sẽ thành thói quen như một bản năng thứ hai.
Có một phương pháp giúp bạn làm cho cả cơ thể hoàn toàn thư giãn dùng kỹ thuật căng thẳng và thả lỏng. Đây là một sự hỗ trợ thật dễ chịu để tạo thư giãn trong suốt thai kỳ, đồng thời tác dụng như một sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho lúc chuyển dạ bởi đó là một phương pháp hữu hiệu cho phép bạn thả lỏng hầu hết các cơ bắp khắp thân thể. Như vậy khi dự con đang co thắt, phần còn lại của cơ thể bạn không bị căng thẳng.
Kỹ thuật này sẽ bao gồm việc tuần tự căng lên và thả lỏng các bộ phận khác nhau trên cơ thể. Chồng bạn có thể phụ bạn bằng cách chạm vào nơi bạn đang căn lên; bạn sẽ phản ứng lại việc đụng chạm ấy bằng cách thả lỏng ra. Tốt nhất, hãy thực hiện bài tập này 1 ngày 2 lần, mỗi lần trong 15 hoặc 20 phút. Nên tập trước bữa ăn hoặc khoảng một tiếng đồng hồ sau khi ăn.
Hãy tạo cho mình tư thế nằm thoải mái, nằm ngữa hay nằm nghiêng cũng được và nên lót thêm gối. Nhắm mắt lại, cố gắng xoá tan đi khỏi đầu óc những ý nghĩ, mối bận tâm, hoặc sự lo âu bằng cách hít vào, thở ra chầm chậm, đều đều và chỉ tập trung vào cách thức hít vào thở ra của mình thôi. Hãy để cho các ý tưởng dễ chịu và thư giãn của bạn tràn vào và nếu tâm trí lại bắt đầu bị xâm chiếm với những điều bực dọc hoặc âu lo, hãy ngăn chúng lại bằng cách nói "không" theo hơi thở, sau đó lại tiếp tục tập trung hoàn toàn vào việc hít thở sâu của bạn. Khi mà đầu óc của bạn đã hoàn toàn được thư giãn và hơi thở đã thật đều đặn và sâu, bạn lại có thể bắt đầu thao tác căng thẳng và thư giãn. Hãy nghĩ đến bàn tay phải của bạn: căng nó ra một lát, lòng bàn tay lật lên trên, sau đó giãn nó ra rồi buông xuôi để cảm thấy nó nặng và âm ấm, cũng làm như thế suốt bên hông phải của cơ thể bằng cách căng và giãn cánh tay trước rồi tới bắp tay và vai. Sau đó đến lượt hông trái của cơ thể cũng thế. Kế đó, gập đầu gối lại, rồi cứ căng ra và thả lỏng phần mông, đùi, bắp chân và bàn chân. Ấn phần lưng dưới nhẹ nhàng sát xuống nền nhà rồi thả ra và thư giãn.
Cuối cùng là phần cơ đầu và cổ. Thư giãn các cơ trên khuôn mặt, mắt và trán. Cố không nhăn mặt hay nhíu mày gì cả.
2. Tư thế của con bạn
Khi một thai nhi đạt đến mức trưởng thành đầy đủ vào khoảng tuần thứ 37 của thai kỳ, cơ thể của nó nặng hơn và đầu của nó quay xuống dưới (cũng có bé ngồi mông cho đến ngày sinh).
Nếu đến lúc sinh mà thai nhi vẫn nằm ở tư thế mông hướng về phía đường sinh, thì có khả năng phải sinh mổ. Nếu đứa con trong bụng của bạn vẫn nằm ở tư thế này vào các tuần lễ cuối cùng của thai kỳ, bạn cũng có thể tin rằng nó sẽ tự động xoay để đầu quay xuống khi cơn chuyển dạ thực sự bắt đầu.
Có khoảng 30% thai nhi có tư thế mông hướng phía đường sinh vào tuần thứ 30 của thai kỳ. Hơn một nửa số này sẽ tự động xoay tư thế lại trong suốt 2 tuần kế tiếp.
Có 14% thai nhi vẫn còn nằm tư thế mông hướng về phía đường sinh vào tuần thứ 32. Có 60% cơ may là bé sẽ tự xoay tư thế lại trước lúc chuyển dạ diễn ra.
Có chưa tới 5% thai nhi vẫn giữ nguyên tư thế mông hướng về phía đường sinh vào tuần thứ 37. Khoảng 1/4 trong số này sẽ tự xoay tư thế lại, mặc dù chuyện này sẽ khó có khả năng xảy ra hơn nếu 2 chân thai nhi đang duỗi ra hoặc tử cung không còn chỗ, do thai nhi lớn hoặc có thai song sinh chẳng hạn.
Có một số ít thai nhi tự đạp vòng quay trong tử cung khi cơn chuyển dạ khởi sự, miễn là tử cung còn chỗ để cho chúng xoay.
3. Theo dõi thai nhi quá hạn sinh
Các thai nhi vượt qua ngày dự sinh được theo dõi thật chặt chẽ. Có một số phương pháp khác nhau để theo dõi thai nhi.
Ghi lại các chuyển động của thai nhi
Dấu hiệu chính xác nhất cho biết tất cả đều ổn với thai nhi là có thể nhận thấy các chuyển động đều đặn của nó. Vì lý do các bà mẹ cũng như các thai nhi không giống nhau nên số lần chuyển động được xem là bình thường đối với mỗi bào thai cũng thay đổi. Chính bạn là người theo dõi hay nhất để biết bé chưa ra đời đang chuyển động một cách bình thường. Bạn có thể tự theo dõi sát các hoạt động của con mình qua một biểu đồ thai máy của bé.
Theo dõi các chuyển động thai nhi bằng máy điện tử
Thiết bị điện tử này có thể được sử dụng để kiểm tra nhịp tim đạp của thai nhi bằng cách cho bạn nghe những âm thanh liên tục hay ghi lại trên giấy. Nếu nhịp tim đập của bé ổn định, thì có thể bạn không cần thực hiện thêm các xét nghiệm khác hay giục sinh.
Theo dõi qua siêu âm
Bạn có thể sẽ được kiểm tra bằng siêu âm để đánh giá lượng nước ối trong dạ con, nếu lượng nước ối này thấp đến mức nguy hiểm thì bạn sẽ được khởi phát chuyển dạ (giục sinh).
4. Có phải bạn đã quá ngày sinh?
Chỉ có khoảng 5% các em bé ra đời đúng vào ngày được tính toán. Ngày sinh đã được tính toán hoặc còn gọi là ngày dự sinh chỉ được coi như là một con số thống kê trung bình, và qua các cuộc nghiên cứu, đã cho ta thấy rằng có độ khoảng 40% bé sơ sinh chào đời sau tuần thứ 41 của thai kỳ (hơn một tuần lễ sau ngày được ta chờ đợi) và tới 10% trẻ ra đời sau tuần thứ 42 của thai kỳ.
5. Quá ngày sinh
Một trong những khó khăn chính trong việc xác định một thai nhi thực sự đã quá ngày sinh hay không là phải dựa vào ngày thụ thai. Đây là điều rất khó xác định. Ngay cả nếu bạn có một chu kỳ kinh nguyệt là 28 ngày (đây là tiêu chuẩn để làm căn cứ tính ngày dự sinh), thì ngày rụng trứng của phụ nữ cũng chỉ được biết một cách phỏng chừng. Ngoài sự mơ hồ về việc xác định ngày rụng trứng chính xác, tình trạng mỗi một em bé cũng không giống nhau và chính vì vậy, thật là không thực tế khi ta cứ nghĩ các trẻ sơ sinh phải trưởng thành trong cùng một số ngày. Hơn nữa, bởi vì cơn chuyển dạ của bạn được khởi động do thai nhi sản sinh ra các nội tiết tốt trong lúc nó tiến đến giai đoạn trưởng thành đầy đủ, điều này kéo theo việc ngày sinh được mong đợi có thể bị thay đổi rất nhiều (ngay cả trong các lần thai nghén "theo sách vở").
Tuy nhiên, các bác sĩ đặc biệt quan tâm nếu thai tiếp tục kéo dài qua khỏi ngày dự sinh ước đoán. Điều này có thể do thai nhi trưởng thành chậm và lượng máu của lá nhau có khả năng thiếu hụt, gây nguy cơ cho sức khoẻ của thai nhi. Bé tiếp tục trưởng thành trong tử cung càng lâu bao nhiêu thì càng to bấy nhiêu, và điều này làm gia tăng khó khăn cho sự chuyển dạ cũng như khả năng lá nhau sẽ không thể tiếp tục chuyển chất nuôi dưỡng thai nhi qua một thời gian dài như vậy.
Các bác sĩ và nữ hộ sinh cũng xem xét lại liệu có phải tiền sử cá nhân bạn hay một tiền sử hộ sản của gia đình có số thai kỳ dài hơn số thai kỳ trung bình không (thí dụ như 43 hoặc 44 tuần). Nếu đây đúng là trường hợp như thế, bác sĩ sản khoa hay nữ hộ sinh sẽ có thể để cho bạn kéo dài thêm 2 tuần quá ngày quy định mà sẽ không giục sinh. Tuy thế, đương nhiên bạn sẽ được theo dõi thật sát xem có vấn đề xảy ra - và thực tế cho thấy, đa số các chị em phụ nữ cảm thấy rất nóng lòng khi sinh vào giai đoạn này.
6. Xương chậu không cân xứng
Cơn chuyển bụng có thể bị ngưng lại nếu đầu bé quá lớn không lọt qua khung xương chậu được. Nếu trường hợp này xảy ra thì buộc phải sinh mổ.
7. Trưởng thành muộn
Một thai nhi quá ngày sinh thì có nguy cơ bị trưởng thành muộn, có nghĩa là bé mất đi lớp mỡ khắp cơ thể, nhất là từ bụng của bé. Chính vì thế, làn da của bé trông có vẻ đo đỏ và nhăn nhúm như thể lớp da đó không vừa với cơ thể của bé và da có thể đã bắt đầu bị tróc ra. Có rất ít trẻ sơ sinh thực sự trưởng thành muộn, tuy nhiên bởi vì sự trưởng thành muôn không chỉ tuỳ thuộc vào tình trạng của bé mà còn tuỳ thuộc vào lá nhau, do đó rất khó cho ta tiên đoán đứa bé nào đang gặp nguy hiểm.
8. Các nguy cơ
Các nguy cơ gồm có: việc chuyển dạ lâu hơn và khó khăn hơn, do đứa bé trưởng thành muộn có khuynh hướng to hơn và xương sọ cứng hơn (điều này có nghĩa là việc di chuyển qua đường sinh sẽ làm tổn thương cả bé lẫn mẹ); và cũng có một nguy cơ lớn hơn là thai nhi chết khi còn trong bụng (nguy cơ thai nhi chết trong bụng tăng gấp 2 lần khoảng trong tuần thứ 43 và gấp 3 lần trong tuần thứ 44 của thai kỳ). Thêm một nguy cơ nữa là khi tử cung bắt đầu co thắt trễ thì cũng co thắt không có hiệu quả trong thời kỳ chuyển dạ.
9. Lá nhau của bé
Vào lúc đủ tháng, lá nhau - một cơ quan chuyển tiếp nguồn cung cấp máu từ người mẹ qua đứa con - trông khá giống như một lá gan còn sống, có kích thước bằng một cái đĩa ăn trung bình, với bề dầy đo được cỡ 2,5cm. Phía lá nhau nằm sát bên người mẹ được phân ra thành các lát có hình dạng như các miếng gỗ chêm được gọi là múi nhau.
Lá nhau có chức năng chính là dự trữ và sẵn sàng điều chỉnh khi có thương tích, sửa chữa các thương tổn do chứng thiếu hụt oxy gây ra và không bị lão hoá. Nhiều người cho là lá nhau ngày càng bị lão hoá trong thai nhi bình thường, do đó hiểu sai đi khi thấy sự xuất hiện các bộ phận khác của lá nhau suốt thời gian mang thai.
Tuy nhiên, chắc chắn rằng có sự thay đổi trong tính chất của các lông nhung xung quanh lá nhau khi bào thai đang phát triển, và vào khoảng tuần thứ 36 của thai kỳ, có thể sẽ có chất can-xi đọng lại bên trong các thành mạch máu nhỏ đồng thời chất đạm có thể lắng đọng lại trên bề mặt của các lông nhung. Cả hai sự thay đổi trên đã có tác dụng hạn chế sự lưu thông của các chất dinh dưỡng và chất thải ngang qua lá nhau. Tuy nhiên, sự hạn chế này sẽ được cân bằng do sự tiếp cận giữa các mạch máu của thai nhi và các lông nhung, các nhân tố này sẽ tăng cường sự trao đổi dưỡng chất.