Hội chứng Down gây trì trệ về tinh thần, xuất hiện một gương mặt đặc
trưng và nhiều bất thường khác. Nguy cơ lớn liên quan đến hội chứng là
b��t thường về tim, một nguy cơ ít hơn là bất sản của tá tràng và một
nguy cơ nhỏ nữa nhưng khá quan trọng là bịnh bạch cầu cấp.
Bất thường NST gây ra hội chứng Down là ba NST số 21 (trisomy 21) một
bản sao không mong muốn của NST 21. Muốn biết cần phải phân tích về
nhiễm sắc thể dưới kính hiển vi.
Việc nghiên cứu NST cũng có thể đánh giá qui tắc chuyển vị vào hoặc
ra của NST số 21 (một kiểu sắp xếp lại) trong di truyền mà có thể làm
gia tăng người mắc bịnh trong gia đình. Ðánh giá những đứa bé hội chứng
Down và gia đình bởi những chuyên gia về gen là điều rất có ích.
Một ý tưởng đã nêu lên và phổ biến trong những năm gần đây là người
có hội chứng Down có thể sống gần như bình thường khi trưởng thành. Tất
cả chúng ta thích quan điểm này hơn và lạc quan hơn cho những người mắc
hội chứng Down. Thật không may mắn là điều đó không phải luôn luôn cần
thiết vì rất ít người mắc hội chứng Down có khả năng sốngđộc lập do họ
chậm phát triển tâm thần.
Trước kia người ta nghĩ gần như tất cả người lớn có hội chứng Down
điều tiến triển đến bịnh Alzheimer (sa sút tâm thần) vì thế những điểm
bất lợi về tâm thần trong đa số người mắc hội chứng Down được dự kiến là
già trước tuổi. Tuy nhiên, bây giờ thì tỷ lệ này thấp hơn nhiều, có lẽ
là 20 - 25 % người lớn mắc hội chứng Down tiến triển thành sa sút tâm
thần. Ða số người lớn mắc hội chứng Down có thể thoát được số phận này.
Có thể sẽ không gọi như thế nhưng cái tên này đã được gắn liền. Hội
chứng Down liên quan đến một bác sĩ người Anh tên là Langdon Down ở thế
kỷ XIX. Một điều trớ trêu thay là ông ta không phải là người đầu tiên
miêu tả hội chứng này, ông ta chỉ thêm vào một ít kiến thức về nó và một
lỗi lớn là ông ta góp phần phục hồi lại chủng tộc Mongoloid. Trước kia
những rối loạn này cũng được gọi là Mongolism mà bây giờ được xem là cổ
xưa, tên chính xác nhất là trisomy 21.
Trong hội chứng Down có những đặc điểm xuất hiện rất phụ nhưng khi
hợp lại có thể giúp chẩn đoán hội chứng Down khi bé mới sanh. Những dấu
hiệu này bao gồm mặt dẹt nhẹ, mất trái tai, sống mũi thấp,
Nó có liên quan đến một số bất thường rõ rệt. Chẳng hạn như phân
nửatrẻ sinh ra có khuyết tật về tim, mà chủ yếu là có lỗ thông giữa hai
buồng tim (thông liên thất, thông liên nhĩ..). Bịnh Hirschprung, có thể
gây ra tắt ruột thường xảy ra ở những đứa trẻ có hội chứng Down hơn
những đứa trẻ khác.
Những bất lợi về trí tuệ trong hội chứng Down là vấn đề quan trọng
nhất. Ðiều này có thể không rõ ở trẻ mới sinh. Tuy nhiên nó càng gia
tăng khi trẻ lớn với kết quả là trẻ chậm phát triển. Ở người lớn thì
biểu hiện bằng chậm phát triển tâm thần.
Hội chứng Down- một dạng chậm phát triển tâm thần khiến cho
bệnh nhân trở nên khù khờ và hầu như không có khả năng học hành- là rối
loạn di truyền thường gặp nhất trong các trẻ sơ sinh còn sống và cũng
chính là loại rối loạn dễ bị bỏ sót nhất trên siêu âm.
Đây là hội chứng không thể chữa khỏi được, gây một gánh nặng rất lớn
cho gia đình và xã hội. Với sự phát triển của y học ngày nay, chúng ta
có thể phát hiện được đến 90% các trường hợp hội chứng Down từ khi đứa
trẻ chỉ mới được 11 đến 13 tuần 6 ngày trong bụng mẹ.
Nguy cơ trẻ mắc hội chứng Down gia tăng theo tuổi mẹ. Do đó, từ những
năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, một số nước phát triển đã áp
dụng biện pháp tầm soát hội chứng Down dựa trên yếu tố tuổi mẹ. Tất cả
những sản phụ trên 35 tuổi đều được tham vấn để chọc ối (hút nước ối qua
thành bụng để kiểm tra bộ nhiễm sắc thể của thai nhi, từ đó chẩn đoán
hội chứng Down). Tuy nhiên, tỷ lệ hội chứng Down được phát hiện chỉ gần
30%. Có nghĩa là trong 10 trẻ Down, chỉ có 3 trẻ được phát hiện trước
sanh để chấm dứt thai kỳ và 7 trẻ còn lại bị bỏ sót.
Đến thập niên 80, việc tầm soát hội chứng Down dựa trên sự phối hợp
tuổi mẹ và xét nghiệm các dấu ấn sinh học thai trong máu mẹ (AFP, HCG và
UE3) khi thai 16-18 tuần để kiểm tra nguy cơ mắc hội chứng Down ở đứa
trẻ trước khi thai phụ được tham vấn có nên chọc ối hay không. Cũng xin
nói thêm rằng chọc ối có thể làm gia tăng một số nguy cơ đối với thai
nhi, chẳng hạn như sinh non hoặc sẩy thai. Phương pháp này giúp phát
hiện khoảng 60% hội chứng Down. Điều này có nghĩa nếu làm xét nghiệm
sinh hóa sàng lọc hội chứng Down cho tất cả sản phụ có thai trong giai
đoạn 16-18 tuần thì cũng chỉ có 6 trong 10 trẻ Down được phát hiện trước
sanh.
Đến thập niên 90, giới chuyên môn ghi nhận có sự liên quan giữa độ mờ
da gáy dày ở bào thai và hội chứng Down. Độ mờ da gáy càng dày thì nguy
cơ hội chứng Down càng tăng. Cần nhớ rằng, dấu hiệu này chỉ xuất hiện
trong một giai đoạn từ 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày. Sau 14 tuần, da gáy
sẽ trở về bình thường và điều này không có nghĩa là thai bình thường.
Sàng lọc hội chứng Down dựa trên tuổi mẹ phối hợp với đo độ mờ da gáy
thai 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày sẽ giúp phát hiện gần 80% hội chứng
DOWN. Cần lưu ý, nếu da gáy dày nhưng nhiễm sắc thể bình thường (trẻ
không bị hội chứng Down), thì trẻ vẫn có nguy cơ cao bị dị tật tim thai.
Nếu độ mờ da gáy >3.5mm, khoảng 1/3 trường hợp sẽ có bất thường
nhiễm sắc thể. Trong 2/3 các trường hợp còn lại sẽ có 1/16 trường hợp có
dị tật tim (Thống kê của Viện Y khoa thai nhi, đặt ở London- Anh Quốc).
Do đó, khi thai có da gáy dày và nhiễm sắc thể bình thường thì vẫn cần
được một chuyên gia về tim thai siêu âm lúc 22 tuần.
Hiện nay, việc sàng lọc hội chứng Down dựa trên sự phối hợp giữa yếu
tố tuổi mẹ, siêu âm đo độ mờ da gáy và xét nghiệm các dấu ấn sinh học
thai (PAPP-A, free beta HCG) trong máu mẹ ở tuổi thai 11 tuần -13 tuần 6
ngày. Tất cả các yếu tố này sẽ được một phần mềm chuyên dụng tính toán
phối hợp lại, đưa ra một nguy cơ cuối cùng về khả năng sanh con Down của
sản phụ là bao nhiêu. Nếu nguy cơ cao, sản phụ sẽ được tham vấn chọc
ối. Phương pháp này giúp phát hiện 90% hội chứng Down. Như vậy, trong 10
trẻ Down, chỉ có một trẻ bị bỏ sót.
Như vậy, để tầm soát tốt nhất hội chứng DOWN, thai phụ cần siêu âm đo
độ mờ da gáy và xét nghiệm sinh hóa sàng lọc giai đoạn 11 tuần -13 tuần
6 ngày. Qua đó sẽ giúp phát hiện sớm hội chứng DOWN. Nếu có nguy cơ cao
( >1/300), sản phụ sẽ được tham vấn sinh thiết gai nhau hoặc chọc ối
để chẩn đoán xác định
Trẻ mắc hội chứng Đao có biểu hiện như thế nào?
(Về đầu)
Trẻ
mắc hội chứng Đao có khuôn mặt khá điển hình với đầu nhỏ, mặt bẹt, lưỡi
thè, mắt xếch, mũi tẹt, cổ ngắn (hình 1). Ngoài ra trẻ còn có thể có
biểu hiện yếu cơ, bàn tay rộng và ngắn, ngón tay ngắn. Trẻ mắc bệnh này
phát triển chậm, thường nhỏ con hơn các trẻ bình thường cùng độ tuổi và
có biểu hiện chậm phát triển tâm thần từ nhẹ đến trung bình.
Ngoài những biểu hiện trên, trẻ bị hội chứng Đao có những bệnh tật nào khác không ?
Trẻ mắc hội chứng Đao có thể bị những bệnh tật sau đây ngay từ khi sinh hoặc trong quá trình phát triển:
-
Dị
tật của tim: Khoảng một nửa số trẻ mắc hội chứng Đao bị tật tim bẩm
sinh. Tình trạng này có thể đe dọa mạng sống của trẻ và cần được phẫu
thuật sớm.
-
Bệnh bạch cầu: trẻ mắc hội chứng Đao có xu hướng dễ mắc bệnh bạch cầu hơn so với trẻ bình thường.
-
Các
bệnh nhiễm trùng: Do bất thường của hệ miễn dịch nên trẻ mắc hội chứng
Đao dễ mắc các bệnh nhiễm trùng hơn so với trẻ bình thường.
-
Sa
sút trí tuệ: Càng lớn tuổi, người mắc hội chứng Đao càng gia tăng nguy
cơ sa sút trí tuệ, tình trạng này thường xuất hiện trước 40 tuổi.
-
Các
bất thường khác: Trẻ bị hội chứng Đao có thể bị một số bất thường khác
như tắc nghẽn dạ dày ruột, bệnh của tuyến giáp, điếc, nhìn kém v.v...
Hội chứng Đao có phổ biến không ?
Hội
chứng Đao là bệnh di truyền phổ biến nhất gây chậm phát triển tâm thần
và những bất thường về phát triển khác. Trung bình trong 700 trẻ sinh ra
sẽ có một trẻ mắc hội chứng Đao.
Hội chứng Đao có điều trị được không ?
Bệnh
Đao không thể điều trị được nhưng có thể chẩn đoán sớm. Các bệnh tật đi
kèm như tật tim bẩm sinh có thể điều trị bằng phẫu thuật. Những hiểu
biết về bệnh và việc thực hiện can thiệp sớm sẽ làm cho cuộc sống của
người mắc hội chứng Đao tốt đẹp hơn.
Nguyên nhân nào gây ra hội chứng Đao ?
Tế
bào của người bình thường có 23 cặp nhiễm sắc thể (NST), mỗi cặp gồm
một chiếc nhận từ bố và một chiếc nhận từ mẹ. Nhiễm sắc thể mang
các gen quy định nên sự hình thành và phát triển của cơ thể. Trong 23
cặp NST này có 1 cặp NST giới tính, 22 cặp còn lại được đánh số từ 1 đến
22 theo thứ tự từ lớn đến nhỏ dần. Hội chứng Đao xảy ra khi trong tế
bào bị thừa NST 21 dưới một trong ba hình thức sau:
-
Tất
cả tế bào của cơ thể có tới 3 NST thứ 21 thay vì chỉ có 2, đây là
trường hợp phổ biến nhất được gọi là thể 3 nhiễm 21, chiếm tới 90% số
trường hợp. Xảy ra do sự phân chia bất thường của tế bào sinh tinh trùng
hoặc sinh trứng (hình 2).
-
Một
số tế bào của cơ thể có 3 NST thứ 21 nhưng số còn lại mang bộ NST bình
thường, đây là trường hợp hiếm gặp được gọi là dạng khảm, xảy ra do phân
chia bất thường của một số tế bào sau khi trứng đã được thụ tinh.
-
Một
trường hợp hiếm gặp khác là do NST 21 gắn với một NST khác tạo nên một
NST bất thường (gọi là NST chuyển đoạn) trước khi hình thành tinh trùng
hoặc trứng. Tinh trùng hoặc trứng mang NST bất thường này khi được thụ
tinh với một trứng hoặc tinh trùng bình thường cũng có thể sinh ra con
mắc hội chứng Đao.
Bệnh Đao có di truyền cho con cái không ?
(Về đầu)
Hầu
hết là không di truyền do chúng gây ra bởi sự sai sót trong quá trình
phân chia của tế bào sinh trứng, sinh tinh trùng hoặc của các tế bào ở
giai đoạn phôi của thai nhi.
Chỉ
trong trường hợp mang NST chuyển đoạn, bố hoặc mẹ có thể mang NST
chuyển đoạn nhưng vẫn bình thường do không bị thừa NST 21, nhưng khi
truyền NST chuyển đoạn sang đời sau có thể gây ra hội chứng Đao. Tuy
nhiên số trẻ sinh ra mắc hội chứng Đao trong trường hợp này chỉ chiếm tỉ
lệ rất thấp, khoảng 4% và khả năng di truyền cho thế hệ sau của NST
chuyển đoạn này cũng khác nhau giữa bố và mẹ. Nếu bố mang NST chuyển
đoạn thì nguy cơ sinh con mắc hội chứng Đao khoảng 3% còn nếu mẹ mang
chuyển đoạn thì nguy cơ này lên tới khoảng 12%. Đây chính là lí do chính
để làm xét nghiệm lập bộ NST (gọi là lập karyotype) cho các trẻ bị mắc
hội chứng Đao.
Các yếu tố nào làm tăng nguy cơ sinh con bị hội chứng Đao?
(Về đầu)
Một số cặp vợ chồng có nguy cơ sinh con mắc hội chứng Đao cao hơn bình thường. Những yếu tố nguy cơ gồm có:
Tuổi mẹ cao
Khi
mẹ càng lớn tuổi hoạt động phân chia các NST trong quá trình phân chia
tế bào để tạo trứng sẽ càng dễ xảy ra sai sót, do đó nguy cơ sinh con
mắc hội chứng Đao tăng lên theo tuổi của người mẹ. Ở tuổi 35, nguy cơ
sinh con mắc hội chứng Đao là 1 trong 385 lần mang thai. Ở tuổi 40, nguy
cơ sinh con mắc hội chứng Đao là 1 trong 106 lần mang thai. Ở tuổi 45,
nguy cơ sinh con mắc hội chứng Đao là 1 trong 30 lần mang thai. Tuy
nhiên cần lưu ý là hầu hết các trẻ mắc hội chứng Đao được sinh ra bởi
các bà mẹ dưới 35 tuổi do đây là nhóm tuổi có tỷ lệ sinh cao.
Những bà mẹ đã có con bị hội chứng Đao
Ở những bà mẹ này nguy cơ sinh đứa con khác mắc hội chứng Đao sẽ lên tới 0,7/100.
Các bố mẹ mang NST chuyển đoạn
Bố hoặc mẹ mang NST chuyển đoạn đều có thể truyền NST bất thường cho con gây ra hội chứng Đao.
Bệnh Đao có dự phòng được không ?
(Về đầu)
Không
có biện pháp nào để dự phòng hội chứng Đao. Tuy nhiên nếu bạn ở trong
nhóm nguy cơ (tuổi mẹ trên 35, mang NST chuyển đoạn, đã sinh con mắc hội
chứng Đao) bạn cần đến bác sĩ tư vấn di truyền để được tư vấn trước khi
mang thai. Họ sẽ giúp bạn hiểu được nguy cơ sinh con mắc hội chứng Đao,
các xét nghiệm trước sinh cần làm, các biện pháp cần thiết để chẩn đoán
sớm cho thai nhi.
Chẩn đoán bệnh ở thời kỳ sơ sinh như thế nào ?
(Về đầu)
Sau
sinh, việc chẩn đoán hội chứng Đao ở trẻ thường dựa vào các biểu hiện
đặc trưng của bệnh. Để xác định chẩn đoán, cần lấy máu tĩnh mạch để phân
tích các NST của trẻ. Nếu tất cả các tế bào đều bị thừa 1 NST 21, trẻ
sẽ được chẩn đoán chắc chắn là mắc hội chứng Đao.
Các xét nghiệm và chẩn đoán trước sinh cho hội chứng Đao được thực hiện như thế nào ?
(Về đầu)
Hiện
nay việc sàng lọc hội chứng Đao được thực hiện cho tất cả các bà mẹ
mang thai ở mọi độ tuổi. Để có được những lựa chọn và quyết định đúng
đắn trong thời kì mang thai, ngoài việc đến với các bác sĩ sản khoa, bác
sĩ siêu âm các bà mẹ mang thai nên tìm đến bác sĩ tư vấn di truyền để
được tư vấn về các bệnh tật di truyền ở thai nhi.
Làm thế nào để biết được sản phụ nào có nguy cơ thai nhi mắc hội chứng Đao ?
(Về đầu)
Để
làm được việc này trước hết phải thực hiện việc sàng lọc trước sinh.
Mục đích là sử dụng các xét nghiệm rẻ tiền để lựa chọn những bà mẹ nào
có nguy cơ sinh con mắc hội chứng Đao cao hơn trong số các bà mẹ mang
thai. Cần lưu ý là những bà mẹ mang thai được chọn ra do xét nghiệm sàng
lọc dương tính vẫn có thể có thai nhi hoàn toàn bình thường nhưng do
có nguy cơ cao hơn nên cần thực hiện thêm các xét nghiệm đắt tiền hơn để
chẩn đoán xem thai nhi có chắc chắn mắc hội chứng Đao hay không.
Khi mang thai trong khoảng từ 11 đến 14 tuần (tính từ ngày kinh cuối), việc sàng lọc được thực hiện bằng 2 xét nghiệm:
Siêu âm
Dùng
để đánh giá vùng gáy của thai nhi, gọi là đo độ mờ da gáy. Khi thai nhi
bị bất thường sẽ có một lượng dịch lớn hơn bình thường tập trung ở vùng
này (hình 3).
Xét nghiệm máu mẹ
Máu
mẹ được lấy để đo nồng độ của hai chất gọi là PAPP-A và hCG. Những bất
thường về nồng độ của các chất này sẽ dự báo khả năng bất thường của
thai nhi.
Khi
mang thai trong khoảng từ 15 đến 18 tuần (tính từ ngày kinh cuối), việc
sàng lọc được thực hiện bằng xét nghiệm các chất AFP, uE3 và hCG hoặc
free b hCG trong máu mẹ, sự thay đổi nồng độ của các chất này sẽ dự báo
khả năng bất thường của thai nhi. Nếu sử dụng kết quả này sẽ chỉ giúp
phát hiện được khoảng 60% trường hợp hội chứng Đao nhưng nếu phối hợp
với cả kết quả siêu âm, xét nghiệm PAPP-A và free b hCG ở tuổi thai 11 -
14 tuần sẽ cho phép phát hiện tới hơn 90% trường hợp thai nhi mắc hội
chứng Đao.
Kết
quả thu được từ siêu âm và xét nghiệm máu sẽ được bác sĩ tư vấn di
truyền tính nguy cơ sinh con mắc hội chứng Đao. Nếu kết quả cho thấy có
nguy cơ thì sản phụ sẽ được thực hiện chẩn đoán trước sinh để chắc chắn
thai nhi có bị mắc hội chứng Đao hay không bằng cách lấy nước ối để xét
nghiệm (hình 4). Các tế bào trong nước ối sẽ được sử dụng để phân tích
NST của thai nhi và cho kết quả chính xác thai nhi có bị hội chứng Đao
hay không.
Cần phải làm gì khi bạn có con mắc hội chứng Đao ?
(Về đầu)
Việc
đối diện với thực tế là con bạn bị mắc hội chứng Đao sẽ làm bạn rất lo
sợ về nhiều vấn đề khác nhau từ việc giáo dục, sức khỏe, tương lai của
trẻ và cả vấn đề di truyền cho những đứa con sau. Để giải quyết những
nỗi lo này các bạn cần làm những việc sau:
-
Cần
cho trẻ khám tổng quát để phát hiện và điều trị các bệnh tật đi kèm như
những dị tật của tim, hệ tiêu hóa, nghe nhìn kém v.v..
-
Cần
đến các trung tâm phục hồi chức năng tại địa phương để giúp trẻ phát
triển khả năng vận động, ngôn ngữ, giao tiếp v.v.. Tại đây có các chuyên
gia vật lý trị liệu sẽ giúp con bạn tập bò, lăn, ngồi và đi nếu trẻ bị
yếu cơ, các chuyên gia về hoạt động trị liệu giúp con bạn
tập ăn, tập sử dụng các kỹ năng của bàn tay, phát triển kỹ năng ngôn ngữ v.v..
-
Hỏi
các bác sĩ về các chương trình can thiệp sớm ở nơi bạn ở, đây là một
chương trình thông qua các hoạt động về nhận thức, vận động và cảm giác
phù hợp để kích thích sự phát triển các kỹ năng của trẻ ngay từ rất sớm
để giúp trẻ phát triển tốt vận động, ngôn ngữ, khả năng tự phục vụ và
các kỹ năng xã hội.
-
Tìm những gia đình cũng có con bị Đao để học hỏi và chia xẻ kinh nghiệm trong việc săn sóc cho trẻ.
-
Nếu
được bạn nên đến một bác sĩ tư vấn di truyền để nhận được các thông tin
đầy đủ hơn về bệnh của trẻ và được tư vấn về các vấn đề liên quan đến
sự di truyền của bệnh, những vấn đề cần quan tâm trong chăm sóc trẻ
những thông tin về các chương trình can thiệp sớm và những cơ hội để
được giúp đỡ.
Nói
chung trẻ mắc hội chứng Đao thường gặp những vấn đề về phát triển, trẻ
thường phát triển chậm hơn so với các trẻ bình thường. Tuy nhiên nếu
được tham gia vào chương trình can thiệp sớm càng sớm thì trẻ sẽ càng có
nhiều cơ hội để phát triển.
Cần
biết rằng người mắc hội chứng Đao mặc dù có biểu hiện chậm phát triển
tâm thần nhưng vẫn có thể đi học, có thể học đọc, viết, làm toán v.v..
Người bị Đao có thể làm các công việc giản đơn và có thể sống cuộc sống
tương đối độc lập nếu được tạo điều kiện phù hợp (hình 5). Cũng như mọi
đứa trẻ khác trẻ mắc hội chứng Đao cần nhận được sự yêu thương từ gia
đình và cộng đồng .
Tài liệu tham khảo
1. Nicolaides K.H. (2004), The 11-13+6 weeks scan, Fetal Medicine Foundation, London.
2. Peter S.H. (2004), Practical Genetic Counselling, 6th edition, Arnold.
3. Ricki L. (2002), Human Genetics: Concepts and Applications. 4th edition, McGrall- Hill.
4. Robert L.N., Roderick R.M., Huntington F.W. (2007), Genetics in Medicine, 4th edition, Thompson & Thompson.
5. William L. Heward (1996), Exceptional Children. An Introduction to Special Education. 5th Edition, Prentice-Hall Inc.
Biên soạn: PGS. TS. Nguyễn Viết Nhân
(ST)