Hướng dẫn học tiếng Latinh

Cùng tham khảo những hướng dẫn học tiếng Latinh nhé các bạn.Tiếng Latin là một ngôn ngữ được bộ tộc Laíium sử dạng từ thời thượng cổ, thuộc trung tâm bán đảo Italia hiện nay.



LỊCH SỬ TIẾNG LATIN

1.1.     Sự ra đời, phát triển, diệt Vong của đế quốc La Mã và tiếng Latin

1.1.1.                         Tiếng Latin là một ngôn ngữ được bộ tộc Laíium sử dạng từ thời thượng cổ, thuộc trung tâm bán đảo Italia hiện nay.

-               Thê kỷ VIII (năm 759) TCN, người Latium xây dựng thành Romc trên bờ sông Tiber, bắt đầu thời kỳ phát triển của mình. Theo truyền thuyết, thành Rome được đặt tên theo tên của Romulus, người xây dựng thành Rome (Romulus và Remus là hai anh em tranh giành nhau quyền thống trị thành Rome).     I

*              Sau đó vài thế kỷ, người Latium bành trướng và đánh bại các bộ tộc khác trên bán đảo Italia ngày nay (thế kỷ III TCN) và các bộ tộc, quốc gia khác xung-quanh Địa Trung Hải thuộc châu Á, châu Âu và châu Phi như Tuynidi, Hy Lạp, Siri (thế kỷ I TCN), biến Địa Trung Hải thành “ao nhà* của mình và hình thành đế quổc La Mã. Những chiến thắng mà người Latium đạt được chủ yều nhờ áp dụng tiến bộ của kỹ thuật, toán học như chế ra máy băn đá, áo giáp, binh khí, có hạm đội biển, dùng sức vật như cừu húc cổng thành, ... và dưới sự chỉ huy tài tình của Caesar, người có bức thư ngắn nổi tiếng: “VENI, VIDI, VICI” =  tôi đã đến, tôi đã nhìn, tôi đã thắng trận.

-> Tiếng Latìn từ thổ ngữ trở thành ngôn ngữ chính thức của đề quốc La Mã - đế quốc lớn nhất thời đó.

1.1.3.                         Sự suy tàn của đế quốc La Mã

vào thể kỷ thứ II và đâu thế kỷ thứ III SCN, đế quốc La Mã bước vào thời kỳ khủng hỏang do nội chiến. Thê kỷ thứ V SCN, đê quốc La Mã bị diệt vong do nội

chịến và ngoại xâm của những “man tộc” như Giécman, Slavơ. Tiếng Latin bị mất tác dụng hội thoại.

Tuy nhiên sau khi đế quốc La Mã bị diệt vong, tiếng Latin vẫn được dùng làm ngôn ngữ cho các nhà trí thức, cho khoa học và cho tôn giáo. Dân dần nó trở thành quốc tế ngữ cho các học giả các nước trên thế giới. Ảnh hưởng của tiếng Latin đối với văn hóa của các nước Tây Âu còn sâu hơn nữa. Kêt hợp với một số thô ngữ, tiêng Latin đã tạo thành một hệ thống ngôn ngữ gọi là hệ thống ngôn ngữ Latin, gồm có các nước Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Rumani và Pháp.

1.2.   Lịch sử sử dụng tiếng Latin

-                 Thời kỳ đế quốc La Mã: ngôn ngữ chính thống (nói, viết)

-                 Thời Trung cổ: tôn giáo (cầu nguyện trong Kitô giáo), khoa học (giảng bài), ngoại giao.

-                 Thời Phục hưng: các môn khoa học (trình bày luận văn)

-                 Thời hiện đại: chỉ dùng trong y học, dược học, thực vật học (chủ -yếu trong danh pháp, đơn thuốc).

1.3.   Đặc điểm của tiếng Latin

1.3.1.                Có nhiều từ gốc trong các lĩnh vực khoa học như y học, dược học, thực vật học: do có nền văn minh Hy Lạp, nơi có nền y học (đại biểu là Hippokrates, Galenos), toán học (đại biểu là Acsimet) phát triển sớm, chịu sự Latin hóa trong thời gian đế quốc La Mã chiếm đóng.

1.3.2.                Có sự kết hợp với nhiều ngôn ngữ như tiếng Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Rumani, Pháp: do sự đồng hóa ngôn ngữ trong thời kỳ đê quôc La Mã.

II.       CHỮ CÁI TIÉNG LATLN

2.1.   Bảng chữ cái

Bảng 1. Bảng chữ cái tiếng Latin

STT
   

Chữ cái
   

Tên gọi
   

Cách phát âm
   

Ví dụ

1
   

A
   

a
   

a
   

apis = con ong

2
   

B
   


   

b
   

beta = cây củ cải

3
   

c
   


   

X
   

citrus = cây chanh

 
   

 
   

 
   

k
   

calor = nhiệt lượng

4
   

D
   

đê
   

đ
   

decem = mười

 

 

 

 

5
   

E
   

Ê
   

ê
   

bene ~ tốt

 6
   

F
   

ép-phờ
   

ph
   

familla = họ

7
   

G
   

ghê
   

gh
   

gutta = giọt

8
   

H
   

hát
   

h
   

Homo sapien — loài người

9
   

I
   

i
   

i
   

impatiens = nóng nẩy

10
   

J
   

iôta
   

i
   

ịuvenis = thanh niên

11
   

K
   

ca
   

k
   

kola = cầy cô ia

12
   

L
   

e-lờ
   

l
   

latex = nhựa mủ

13
   

M
   

em
   

m
   

medicina = y học

14
   

N
   

en
   

n
   

niger, nigra = đen

15
   

0
   


   

ô
   

orientalis = ở phương đông

16
   

p
   

pe
   

p
   

panis = bánh mỳ

17
   

Q
   

cu
   

q
   

aqua = nước, quercus = cây sồi

18
   

R
   

e-rờ
   

r
   

rosa = hoa hồng

19
   

S
   

" ét-xờ
   

x

d
   

species =loài

dosis = ỉiều

20
   

T
   


   

t

x
   

taicum = bột talc

 natỉo = quôc gia

21
   

U
   

u
   

u
   

urina = nước tiêu

22
   

V
   


   

v
   

video = nhìn

23
   

X
   

ích-xờ
   

CỜ-XỜ
   

simplẹx - đơn giản

24
   

Y
   

ip-xi-lon
   

uy, ĩ
   

lachryma = nước mắt

25
   

z
   

Dê ta
   

d
   

zona = vùng

25 chữ cái latin được chia thành 2 loại:

-            6 nguyên âm là: a, e, i, o, u, y

-                18 phụ âm là: b, c, d,f, g, h, I,  k, l, m, n, p, q, r, s,t, v, x, z.

-                bán nguyên âm: j (J) đọc như i

-                w (vê kép) không có trong bảng chữ cái tiếng Latin nhưng hiện nay do sự pha trộn với các ngôn ngữ khác như tiếng Anh nên vẫn có thể gặp chữ w này, được đọc làu hoặc V.

2.2.        Cách đọc và viết các nguyên âm — phụ âm

2.2.1.                         Cách đọc và viết các nguyên âm và bán nguyên âm đơn

*                         Các nguyên âm a, i, u đọc như trong tiêng Việt

Acidum (a-xi-dum)                                                              acid

Kalium (ka-li-um)                                                                kali

Aspirinum (a-xờ-pi-ri-num)                                               aspirin

Natrium (na-tờ-ri-um)                                                         natri

-                          Nguyên âm e đọc như “ê” trong tiếng Việt nhưng không .có dấu ở trên

Bene (bê-nê)                                                                         tốt

Dividere (đi-vi-đê-rê)                                                          chia

Ephedrinum (ê-phê-dờ-ri-num)                                         ephedrin

-                     Nguyên âm o đọc như “ô” trong tiếng Việt

Bito (bi-tô)                                                                            tôi uống

Cito (xi-tô)                                                                            nhanh

Novocainum (nô-vô-ca-i-num)                                         novocain

■       Nguyên âm y đọc như chữ “I” là do đọc chệcli, đứỉig ra phải đọc là “uy” Amyhim (a-muy-lum)       tinh bột

pỵramidonum (puy-ra-ffii-đô-num)                                  pyramidon

Antipyrinum (an-ti-pi-ri-num)                                           antipyrin

Streptomycinum (xờ-tờ-rép-tô-mi-ci-num) streptomycin m Nguyên âm ỉ và j, đốỉ với tiếng Latin chỉ là 1 là đọc như “i” trong tiếng Việt VD: major đọc Ịằ          chứ    không đọc là “ma-gio-rờ”. Tuy nhiên

do thói quen, một số người vẫn đọc chệch chữ j (giống như trong tiếng Pháp). Vì vậy cỏ nhiều từ viết lẫn 2 chữ này với nhau

VD: majalis = maialis

-                     Chữ u và v>tuy là 2 chừ khác nhau nhưng trong các văn kiện cổ xưa, cả 2 chữ này đều viết như chữ v

VD: duo = 2, xưa kia viết Ịầ dvo

2.2.2.                         Cách đọc và viết các nguyên âm kép và nguyển âm ghép

•                          Nguyên âm kép là hai nguyên âm đứng liền nhau và đọc Ihành một âm

-                          ae đọc như ‘V’ trong tiếng Việt

Caesalpinia                                                                            chi Vang

Aetherum (e-thê-rum)                                                         cther

 

-                     oeđọc như“ơ” trong Tiếng Việt
   

 

Poetidus (phơ-ti-đu-xờ)
   

có mùi hôi thối

Oedema (ơ-đê-ma)
   

bệnh phù

- au đọc như “au” trong tiếng Việt
   

 

Aurum (au-rum)
   

vàng

Lauraceae (lau-ra-xê)
   

họ Long não

- eu đọc như “êu” trong tiếng Việt
   

 

  Neuter (nếu-tờ-rờ)
   

trung tính

  Eucalyptus (êu-ca-lip-tu-xờ):
   

chi Bạch đàn

• Nguyên âm kép ae, OỂ cổ hai dấu chấm trên' chữ e (ẽ) phải đọclách riêng từng
   

 

nguyên âm
   

 

Aểr (a-ê-rỡ) Aloể (a-lô-ê)
   

iỂỆẵ. không; khí rấsMrô—

lô hội

• Nguyên âm ghép là hai nguyên âm đứng liền nhau, đọcthành hai âm nhưng âm đầu đọc ngắn , âm sau đọc dài
   

 

 
   

 

opium (ô-pi-um)
   

thuốc phiện

Ưnguentum (un-gu-ên-tum)
   

thuốc mỡ

2.2.3. Cách đọc và viết các phụ âm đơn
   

 

Các phụ âm b, h, k, /, m, n, p, r, V đọc như trong tiếng Việt
   

 

Bonus (bô-nu-xờ)
   

tốt

Hora (hô-ra)
   

giờ

Kalium (ka-li-um)
   

kali

Liquor (li-cu-ô-rờ)
   

đang dịeh

Mel (mê-lờ)
   

mật ong

Neriolínum^nê-li-ô-li-nuni)
   

nerioMn

Purus (pu-ru-xờ)
   

tinh khiết

Recipe(rê-xi-pê)
   

hãy lấy

VaccinuiH (vac-xi-num)
   

vaccin

- phụ âm đứng trướng a, o, u, đọc như “k”, đứng trước e, i, y, ae, oe, đọc như “x” trong tiếng Việt
   

 

 
   

 

Calor (ka-lô-rờ)
   

nhiệt lượng

Color (kô-lô-rờ)
   

màu

Cutis (ku-ti-xờ)
   

da

Cera (xê-ra)                                                                          sáp

Cito (xi-tô)                                                                           nhanh

Cyaneus (xuy-a-nê-u-xờ)                                                  màu lam

Caecus (xê-cu-xờ)                                                              mù

Coelia (xơ-li-a)                                                                   phần bung

-               Phụ âm d đọc như “đ” trong tiếng Việt

Da (đa)                                                                                  cho, cấp, phát, đóng gỗị '

Dậéem (đê-xem)                                                                  mười

-               Phụ âm/ đọc như “ph” trong tiếng Việt

Flos (phờ-lô-xơ)                                                                  hoa

Folium (phô-li-um)                                                            lá

-               Phụ âm g đọc như “gh” trong tiếng Việt

Gelatinum (ghê-la-ti-num)                                                 gelatin

Gutta (ghut-ta)                                                                     giọt

-               Phụ âm q bao giờ cũng đi kèm với u và đọc như “qu” trorig tiếng-Việt

Aqua (a-qua)                                                                        nước

Quantum satis (quan-tum xa-ti-xờ)                                  lượng vừa đủ

Trường hợp qu đi với i phải đọc thành “ki”

Quininum (ki-ni-num)                                                        quinin

-         Phụ âm s đọc như “x”, trừ khi đứng giữa hai nguyên âm hoặc đứng giữa một nguyên âm và m hay n thì đọc như “d” trong tiếng Việt

Serum (xê-rum)                                                                   huyết thanh

Rosa (rô-da)                                                                         hoa hồng

Gargarisma (ga-rờ-ga-ri-dờ-ma)                                       thuốcsúc miệng

Mensura (mên-du-ra)                                                         sự đo

-               Phụ âm t đọc như “t” trong tiếng Việt, trừ khi đứng trước I và kèm theo một nguyên âm nữa thì đọc như “x”. Nhưng nếu trước t, I và nguyên âm lại có một trong ba chữ s, t, x thì vẫn đọc là “t”.

Talcum (ta-lờ-cum)                                                             bột talc

Potio (pô-xi-ô)                                                                     thuốc nước ngọt

Mixtio (mic-xờ-ti-ô)                                                           hỗn hợp, sự trộn lẫn

Ustio (u-xờ-ti-ô)                                                                  sự đốt cháy

-               Phụ âm X đứng đầu từ đọc như “x” trong tiếng Việt. Nếu x đứng sau nguyên Im đọc như “kx”, đứng giữa hai nguyên âm đọc như “kd”

Xylenum (xuy-lê-num)                                                        xylen

Excipiens (ếch-xờ-xi-pi-ên-xờ)                                        tá dược

Exemplum (ếch-dêm-pờ-lum)                                           ví dụ

-                     Phụ âm z đọc như “d” trong tiếng Việt

Ozone (ô-dô-nê)                                                                  ozon

Zea (dê-a)                                                                             ngô

2.2.4. Cách đọc và wiểt các phụ ăm kép, phụ âm ghép, phụ ăm đôi

•             Phụ âm kép là hai phụ âm đi liền nhau, nếu phụ âm sau ỉà li thì đọc như một phụ âm tương đương

•             Ch đọc như “kh” trong tiếng Việt

Chatar (kha-ta-rờ)                                                               than

Ochrea (ô-khờ-rê-a)                                                            bẹ chìa

Trường hợp chl đọc như “k” hay “c” trong Tiếng Việt                                            r-

Chlorum (cờ-lô-rum)                                                          chlor

-                     phđọc như “ph” trong tiếng Việt

Camphora (cam-phô-ra)                                                     chi Long não

Phiala (phi-a-la)                                                                  chai

-                         rh   đọc như “r” trong tiếng Việt (chữ h câm)

Rheum (rê-ùm)                                                                    đại hoàng

Rhizoma (ri-dô-ma)                                                            thân rễ

-                     th đọc như “th” trong tiếng Việt

Anthera (an-thê-ra)                                                             bao phấn

Aẽtheroleum (a-ê-thê-rô-lê-um)                                        có tinh dầu

•             Phụ âm ghép là hai phụ âm đi liên nhau đọc thành hai âm, phụ âm đầu đọc nhẹ vầ lướt nhanh sang phụ âm sau

Bromum (bờ-rô-mum)                                                        brom

Drasticum (đờ-ra-*fc$rcum)                                             thuốc tẩy mạnh

Drupa (đờ-ru-pa)                                                                 quả hạch

Natrium (na-tờ-ri-um)                                                        natri

•             Phụ âm đôi là'hai phụ âm giống nhau đi liền nhau, đọc một phụ âm cho âm tiết trước và mệt phụ âm cho âm tiết sau

 

Ampulla (am-pu-lờ-la)                                                       ông tiêm

Gramma (gờ-ràm-raa)                                                         gam

Gutta (ghút-ta)                                                                     giọt

Chủ ý: phụ âm w đứng trước nguyên âm đọc là “v”, đứng trước phụ âm đọc là “u” Fowler (phô-u-lê-rờ)                                                                                     fowler

Rauwolfía (rau-vol-phi-a)                                                 chi Ba gạc

 


CÁCH ĐỌC TÊN LATINH

Trong quá trình trao đổi, hội thoại về những thông tin sinh học dù bằng bất kỳ tiếng nước nào trên thế giới, lắm lúc phải đọc tên các taxon thực vật,  động vật bằng tiếng Latin. Phát âm không chuẩn xác cũng dễ gây hiểu lầm, có khi từ một loài cần quan tâm  lại khiến người nghe hiểu đến một loài khác, thậm chí có khi họ không thể nhận ra được là loài gì mặc dù loài muốn nêu là rất quen thuộc. Do vậy, việc phát âm chuẩn xác tiếng Latin là một yêu cầu thiết thực đối với những ai quan tâm đến lĩnh vực phân loại học sinh vật. Nhằm góp phần giúp các bạn thực hiện mục đích vừa nêu, tôi xin giới thiệu cách phát âm tiếng Latin như sau

 I. Các nguyên âm

Hình thái chữ
Tên gọi
Phát âm
Ví dụ

Viết hoa

Viết thường

A
a
a
a

anatomia, aqua, camphora, tabella

E
e
ê
ê

cera, arteria, cerebrum, ceratus, cicade

I
i
i
i

iecur, labium. liber, digitalis, meninx

J
i
iôta
i

jodum, injectio, jus, jocur

O
o
ô
ô

collum, ovum, dosis, mono, hetero

U
u
u
u

anus, nervus, maximum, caecum

Y
y
ipxilon
u (âm Pháp)

oxygenium, larynx, hybridus

II. Các nguyên âm kép
Trong tiếng Latinh có 4 nguyên âm kép có cách phát âm riêng, nhưng nhiều trường hợp do thói quen người ta đã phát âm theo âm tiếng Pháp, điều này khiến người nghe hiểu nhầm qua một nguyên âm khác, từ đó có thể hiểu sai nghĩa thuật ngữ hoặc nhận định nhầm một taxon sinh vật.
1. Nguyên âm kép ae: phát âm như âm [e] trong tiếng Việt
Ví dụ:
saepe (nhiều khi), aeger (ốm đau), aether (ete), aetheroleum (tinh dầu), aequalis (bằng), aequivalens (tương đương) ...
2. Nguyên âm kép oe: phát âm như âm [ơ] trong tiếng Việt
Ví dụ:
foetus (thai), oedema (bệnh phù), oenanthe (cây rau cần), ...
3. Nguyên âm kép au: do thói quen theo âm Pháp, nhiều người phát âm âm này như âm [ô] tiếng Việt, khiến người nghe nhầm với nguyên âm o. Bởi vậy phải chú ý phát âm chuẩn và cách phát âm đúng cho âm này là như âm [au] trong tiếng Việt.
Ví dụ:
aurum (vàng kim), aureus (như vàng kim), auris (tai), auricula (tai nhỏ), aurantium (quả cam) ...
4. Nguyên âm kép eu: phải được phát âm như âm [êu] trong tiếng Việt, nhưng do thói quen theo âm Pháp, nhiều người đã phát âm thành âm [ơ] khiến người nghe nhầm với nguyên âm kép oe
Ví dụ:
euglena (Trùng mắt), eucalyptus (cây Bạch đàn), leucaena (cây Keo dậu), Melaleuca leucadendra (cây Tràm), leucaemia (bệnh bạch cầu), seu (hoặc)...

Lưu ý: aë, oë không phải là nguyên âm kép, khi phát âm phải tách thành 2 âm:
aë: phát thành a - ê oë: phát thành ô - ê

III. Các phụ âm

Hình thái chữ

Tên gọi

Phát âm

Ví dụ

Viết hoa

Viết thường

B

b

bờ

bonus, borax, botanica, bufo

C

c

Cờ
xờ

camphora, collum, corolla
caecum, cera, coena, cerebrum

D

d

đê

đờ

dosis, deformis, divisio, duodenum

F

F

epphơ

phờ

facies, fel, finis, flos, folium, functio

G

g

ghê

gờ

ganglion, gaster, gemma, giganteus

H

h

hát

hờ

herba, homo, hora, hybridus

K

k

ca

cờ

kaolinum, keratoma, kola

L

l

enlơ

lờ

labium, larynx, levis, liber, locus

M

m

emmơ

mờ

maximum, meninx, minimum, mutatio

N

n

ennơ

nờ

nasus, nervus, nomen, numero

P

p

pờ

pancreas, penicillinum, pestis, porcus

Q

q

cu

q(u): quờ

quadruplex, quercus, quinque

R

r

errơ

rờ

radix, recipe, rosa, ruber

S

s

etxơ

xơ,
dờ

saccharum, semen, solutio
sinensis, plasma, dosis, mensa

T

t

tờ
xờ

taenia, terra, tinctura, toxinum, tuber
solutio, natio, scientia

V

v

vờ

vaccinia, variolla, vesper, virus

X

 x

ichxơ

kxờ
kdờ

simplex, thorax, xanthomonas
exemplum, maxima

Z

z

dêta

dờ

zanthoxylum, zea, protozoa

IV. Các phụ âm kép
1. Những phụ âm kép phát ra một âm
1.1. Phụ âm kép ch: là phụ âm kép có nguồn gốc Hilạp (X, x: khi), nên phát âm theo âm Hilạp, như [kh] trong tiếng Việt.
Ví dụ:
charta (giấy), character (tính chất), chemia (hóa học), chlorophyllum  (diệp lục tố), cholera (bệnh tả), chromosoma (nhiễm sắc thể), arachis  (cây lạc, đậu phụng)...
1.2. Phụ âm kép ph: cũng có nguồn gốc Hilạp (Φ,ф: phi), nên phát âm như âm [ph] trong tiếng Việt.
Ví dụ:
pharmacia (tiệm thuốc), pharmacologia (dược lý học), pharmacopola  (người bán thuốc), pharynx (họng), phoenix (cây chà là), philosophia  (triết học), calophyllum (cây mù u)...
1.3. Phụ âm kép rh: phát âm như âm [r] có rung lưỡi.
Ví dụ:
rheum (cây đại hoàng), rheumatismus (tê thấp), rhizoma (thân rễ),  diarrhoea (bệnh tiêu chảy), rhodomyrtus (cây sim)...
1.4. Phụ âm kép th: là phụ âm kép có nguồn gốc Hilạp (Θ, θ: thêta), nên phát âm theo âm Hilạp, như âm [th] của tiếng Việt. Tuy nhiên, do thói quen phát âm tiếng Pháp nên nhiều người đã phát thành âm [t].
Ví dụ:
thea (cây Chè), theatrum (nhà hát), theophylinum (theophylin), anthera (bao phấn), thermometrum (nhiệt kế), thorax (lồng ngực, ức), thymus  (tuyến ức)...
2. Phụ âm kép vừa phát ra 1 âm vừa phát ra 2 âm: đó là phụ âm kép sc, tùy thuộc nguyên âm theo sau mà có cách phát âm như sau:
Phát thành 1 âm như âm [s] trong tiếng Việt khi đứng trước các nguyên âm e, i, y, ae, eu, oe.
Ví du:
scelus (tội ác), scientia (kiến thức, khoa học), scyphus (cốc uống rượu).
Phát thành 2 âm [xk] khi đứng trước các nguyên âm o, u, au, aị, oị. Cần nhớ rằng khi phát âm trong trường hợp thứ hai này, âm s phát yếu và lướt nhanh để cho âm c thành âm chính.
Ví dụ:
sclera (củng mạc), scrotum (bìu), sculptura (nghệ thuật điêu khắc)...
3. Những phụ âm kép phát ra 2 âm, nhưng phụ âm sau mạnh và dài hơn.
Ví dụ:
agricultura (nông nghiệp), atrophia (sự teo), fabriqua (cấu trúc), chlorophylla (diệp lục tố), chromosoma (nhiễm sắc thể), pluvialis (thuộc nước mưa), pneumonia (bệnh viêm phổi), primus (thứ nhất), classis (lớp), crystallus (tinh thể), fractura (sự gãy xương), spora (bào tử), tabletta (thuốc phiến)...
ps là phụ âm kép có nguồn gốc Hilạp (Ψ, φ: pxi), được phát âm là [px], ví dụ như Pseudopoda (chân giả), Pseudoryx nghetinhensis (loài Sao la)...
4. Phụ âm ghép đặc biệt
Các phụ âm đơn "n" và "g" khi đi liền nhau cần được lưu ý rằng:
a. Khi chúng ghép thành "ng": tưởng như phụ âm kép, nhưng thật ra đây không phải là phụ âm kép, khi phát âm phải tách ra từng âm một, n cho âm tiết trước và g cho âm tiết sau.
Ví dụ:
lingua (ngôn ngữ) phát âm thành lin-gua
fungus (nấm) phát âm thành fun-gus
mangifera (cây xoài) phát âm thành man-gifera
unguentum (thuốc bôi dẽo) phát âm thành un-guentum...
b. Khi chúng ghép thành "gn": có hai trường hợp:
Đứng đầu từ: là một phụ âm kép
Ví dụ:
Gnetum (cây Dây gắm)
Đứng giữa từ: phát âm tách rời 2 phụ âm ra, phụ âm g cho âm tiết trước và phụ âm n cho âm tiết sau. Do thói quen phát âm tiếng Pháp nên nhiều người phát âm 2 phụ âm này như phụ âm kép nh trong tiếng Việt.
Ví dụ:
lignum (gỗ), lignosus (cứng như gỗ), magnesium (manhê)...
V. Những nguyên âm và phụ âm có cách phát âm cần lưu ý
Có một số nguyên âm và phụ âm có cách phát âm đặc biệt cần được lưu ý, thông thường do thói quen phát âm tiếng Việt và tiếng Pháp khiến một số người hay nhầm lẫn.
1. Nguyên âm i và j: tuy có cách viết khác nhau nhưng cả hai đều cùng một cách phát âm là [i]. Do vậy có thể viết cách này hay cách khác nhưng vẫn đồng nhất cách đọc.
Ví dụ:
iod có thể viết iodum hay jodum
Tương tự như thế, chữ j trong các từ sau đây đều được phát âm là [i]:
jecur (gan), jecuroleum (dầu gan), jecuroleum jecuris aselli (dầu gan cá  thu), jus (nước ép), injectio (thuốc tiêm)...
2. Nguyên âm y: là một nguyên âm gốc Hilạp (Y, u: ipxilon) được Latinh hóa, phải phát âm như nguyên âm u trong tiếng Pháp, nhưng có lẽ do thói quen và cũng có thể do để dễ phát âm hơn mà người ta đã phát âm trại thành [i[.
Ví dụ:  
Tất cả các nguyên âm y trong các từ sau đây đều phải được phát âm chuẩn như âm [u] của tiếng Pháp: larynx (thực quản), hybridus (lai tạo), glycogenum (glycogen), hydroxidum (hidroxit), hydragyrum (thủy ngân)...
3. Phụ âm c: có hai cách phát âm khác nhau:
a. Phát âm như âm [k] tiếng Việt khi nó đứng trước các nguyên âm a, o, u
Ví dụ:  
calyx (đài hoa), camphora (long não), collum (cổ), cor (tim), cubitus (khuỷu tay), collenchyma (mô dày)...
b.Phát âm như âm [x] tiếng Việt khi nó đứng trước các nguyên âm i, e, y, ae, oe
Ví dụ:
centum (một trăm), cerebrum (não), ceratus (có sáp), citratus (mùi chanh), cicade (ve sầu), cyathium (cái chén), cyathiformis (dạng chén), caecum (manh tràng), coena (bữa ăn chiều)...
4. Phụ âm g: phát âm như âm [gh] tiếng Việt trong mọi trường hợp. Tuy nhiên cũng có người quen phát âm như âm [j] của tiếng Pháp với 1 số trường hợp.
Ví dụ:
ganglion (hạch), geminatus (sinh đôi), gemma (chồi, búp), glycogenium (glycogen), digitalis (cây Dương địa hoàng)...
5. Phụ âm q: không đi một mình, muốn phát âm được nó phải đi kèm với nguyên âm u tạo thành phụ âm đặc biệt và được phát âm như âm [qu] trong tiếng Việt.
Ví dụ:
aqua (nước), quercus (cây sồi), quisqualis (cây sử quân tử)...
6. Phụ âm r: khi phát âm phải rung lưỡi.
Ví dụ:
ren (thận), resina (nhựa), rosa (hoa hồng), ruber (màu đỏ), spora (bào tử)...
7. Phụ âm s: có hai cách phát âm:
a. Phát âm như [dờ] tiếng Việt khi nó bị kẹp giữa hai nguyên âm hoặc giữa một nguyên âm và phụ âm m hay n
Ví dụ:
plasma (huyết tương), gargarisma (thuốc súc miệng), sinensis (ở Trung  quốc), tonkinensis (ở Bắc bộ), dosis (liều lượng), resina (nhựa)...
b. Phát âm như âm [x] tiếng Việt đối với những trường hợp còn lại.
Ví dụ:
saepe (nhiều khi), saccharum (mía), simplex (giản đơn), spora (bào tử), stigma (nuốm nhụy), suber (chất bần, sube), syrupus (xiro), semen (hạt), sucrosum (đường)...
8. Phụ âm t: có hai cách phát âm:
a. Phát âm như âm [x] tiếng Việt khi nó đứng trước nguyên âm i mà sau nguyên âm i lại có thêm một nguyên âm khác nữa.
Ví dụ:
natio (quốc gia), copulatio (sự giao hợp), dehiscentia (sự nứt nẻ),  factitius (nhân tạo), aurantium (quả cam)...
b. Phát âm như âm [t] của tiếng Việt khi kết cấu như trên nhưng có thêm một trong 3 phụ âm s, t, x đi liền trước phụ âm t
Ví dụ:
ustio (sự đốt cháy), mixtio (sự trộn lẫn), poinsettia (cây Trạng nguyên)...
c. Những trường hợp còn lại đều được phát âm như âm [t] tiếng Việt.
Ví du:
asteria (động mạch), costa (xương sườn), stomata (khí khổng), taenia  (sán dây), tunica (áo)...
9. Phụ âm x: có hai cách phát âm:
a. Phát âm [kz]khi nó bị kẹp giữa hai nguyên âm.
Ví dụ:
exemplar (bản), exemplum (ví dụ), maximum (cực đại), maxilla (hàm  trên)...
b. Phát âm [kx]ở những trường hợp còn lại.
Ví dụ:
radix (rễ), meninx (màng não), extractum (cao)...
10. Phụ âm z: là một phụ âm có nguồn gốc Hilạp (Z, ζ : zêta), ngoài ra trong tiếng Latinh nhiều lúc cũng tồn tại một số thuật ngữ có nguồn gốc tiếng Đức.
Trong mỗi trường hợp đều có cách phát âm riêng.
a. Nếu nguồn gốc tiếng Hilạp thì được phát âm [z]
Ví dụ:
zea (cây ngô), rhizoma (thân rễ), rhizobium (nấm rễ)...
b. Nếu nguồn gốc tiếng Đức thì phát âm [tx]
Ví dụ:
zincum (kẽm)
11. Phụ âm w: Trong bộ mẫu chữ cái tiếng Latinh không có phụ âm w, nhưng do yêu cầu xây dựng những thuật ngữ khoa học người ta đã đưa thêm nó vào. Cách phát âm tùy thuộc nguồn gốc thuật ngữ có chứa phụ âm w.
a. Nếu nguồn gốc tiếng Đức thì phát âm như âm [v] tiếng Việt.
b. Nếu nguồn gốc tiếng Anh, Mỹ thì phát âm như âm [w] của tiếng Anh

CÁCH VIẾT TÊN LATINH

Trong quá trình học tập và nghiên cứu các dược liệu có nguồn gốc thực vật, sinh viên ngành Dược và cán bộ nghiên cứu liên quan thường xuyên tiếp cận tên khoa học của các dược liệu và cây dược liệu.
Tên khoa học của cả hai thành phần vừa nói thuộc phạm trù danh pháp, nên luôn tuân thủ nguyên tắc quốc tế. Nguyên tắc đó bao gồm cả nguyên tắc về đặt tên thuốc và nguyên tắc đặt tên cây. Mặt khác, do danh pháp sử dụng tiếng Latin, nên đồng thời cũng phải tuân thủ nguyên tắc ngữ pháp của tiếng Latin. Chính vì những yêu cầu nghiêm ngặt đó khiến cho những người ít nghiên cứu hoặc ít quan tâm các nguyên tắc nói trên dễ nhầm lẫn khi sử dụng tài liệu. Thực tế cho thấy, cũng có một số tài liệu đã có những nhầm lẫn trong cách viết tên dược liệu và tên cây dược liệu, có lẽ phần lớn do lỗi in ấn.
Như vậy, tốt hơn hết, trước khi thâm nhập nghiên cứu tên dược liệu và tên cây dược liệu, người học nên biết:
I. Nguyên tắc viết tên Latin các dược liệu có nguồn gốc thảo dược
Trong thực tế, tên Latin một dược liệu có thể được viết theo một trong bốn dạng sau:
1. Dạng thứ nhất: Danh từ chỉ dạng thuốc viết ở thể chủ cách (nominativus) + tên chi cây dược liệu viết ở thể sở hữu cách (genitivus).
Ví dụ: Herba ocimi (Hương nhu)
Trong đó:
- herba: thân thảo, được hiểu là toàn thân cây thảo;
- ocimi: sở hữu cách của Ocimum, tên khoa học của chi Hương nhu.
Dạng này không cụ thể, vì có trường hợp nhiều loài cây dược liệu cùng chi thực vật có thể dùng thay nhau vì có tính chất tương đồng, có tác dụng dược học gần giống nhau; nhưng cũng rất nhiều trường hợp các loài cùng chi có tác dụng dược học khác nhau hoặc chưa được nghiên cứu, rất dễ gây nhầm lẫn.
Ví dụ:
Nếu chỉ viết Radix angelicae thì người sử dụng không rõ đó là Bạch chỉ hay Đương qui. Hai vị thuốc này có nguồn gốc từ hai loài khác nhau trong chi Angelica. Trường hợp này phải viết theo dạng thứ hai dưới đây.
2. Dạng thứ hai: Danh từ chỉ dạng thuốc viết ở thể chủ cách + tên loài cây dược liệu viết ở thể sở hữu cách.
Ví dụ 1: Radix stemonae tuberosae (Bách bộ)
Trong đó:
- radix: rễ cây
- stemonae tuberosae: sở hữu cách của Stemona tuberosa, tên khoa học của cây Bách bộ.
Ví dụ 2: Radix angelicae dahuricae (Bạch chỉ)
Trong đó:
- angelicae dahuricae: sở hữu cách của Angelica dahurica, tên khoa học của cây Bạch chỉ.
Ví dụ 3: Radix angelicae sinensis (Đương qui)
Trong đó:
- angelicae sinensis: sở hữu cách của Angelica sinensis, tên khoa học của cây Đương qui
3. Dạng thứ ba: Danh từ chỉ dạng thuốc viết ở thể chủ cách + tên chi cây dược liệu viết ở thể sở hữu cách + tính ngữ chỉ tính chất của dạng thuốc.
Ví dụ 1: Lignum aquilariae resinatum (Gỗ có nhựa của cây Dó trầm)
Trong đó:
- lignum: gỗ
- resinatum: có nhựa (tính từ giống trung, bổ nghĩa cho lignum)
- aquilariae: sở hữu cách của Aquilaria, tên khoa học của chi Dó (Dó trầm).
Ví dụ 2: Semen vignae praeparatum  (Hạt của cây Đậu đen chế)
Trong đó:
- semen: hạt
- praeparatum: được chế (tính từ giống trung, bổ nghĩa cho semen)
- vignae: sở hữu cách của Vigna, tên khoa học của chi Đậu đen.
4. Dạng thứ tư: Danh từ chỉ dạng thuốc viết ở thể chủ cách + tên loài cây dược liệu viết ở thể sở hữu cách + tính ngữ chỉ tính chất của dạng thuốc.
Ví dụ:
Radix rehmanniae glutinosae praeparata (Rễ cây Địa hoàng chế)
Trong đó:
- radix: rễ cây
- praeparata: được chế (tính từ giống cái, bổ nghĩa cho radix)
- rehmanniae glutinosae: sở hữu cách của Rehmannia glutinosa, tên khoa học của cây Địa hoàng
Danh từ chỉ dạng thuốc thường chỉ một bộ phận, cơ quan của cây dược liệu. Nhưng cũng có nhiều trường hợp nhiều cơ quan, bộ phận khác nhau của cùng một loài cây được dùng làm thuốc, lúc đó trong tên dược liệu sẽ xuất hiện cùng lúc nhiều danh từ chỉ dạng thuốc. Các danh từ đó có thể được liệt kê theo dạng dùng dấu phẩy, hoặc liên từ Latin "et", tất cả đều được viết ở thể chủ cách, ví dụ: Gemma et cortex psidii: búp và vỏ cây Ổi. Các danh từ đó cũng có thể được nối nhau bởi một giới từ Latin, lúc đó danh từ đi sau giới từ phải được viết ở thể tạo cách (ablativus), ví dụ: Flos cum folio daturae: Hoa cùng với lá cây Cà độc dược (lúc này không thể viết cum folium được).
Cũng có khi phải dùng danh từ kép để chỉ dạng thuốc thì danh từ chính viết ở thể chủ cách, danh từ bổ nghĩa viết ở thể sở hữu cách, ví dụ: Cortex licii radicis hoặc Cortex radicis licii:Địa cốt bì, vỏ rễ cây Câu kỉ.
Trong tên dược liệu, tên khoa học của cây dược liệu đã chuyển sang thể sở hữu cách, về mặt ngữ pháp nó đóng vai trò một tính ngữ, không còn là danh pháp loài, theo tôi không nên viết hoa.
(Nhiều tài liệu vẫn viết hoa, như vậy là không đúng luật ngữ pháp Latin. Có lẽ do thói quen viết hoa để nhấn mạnh các thành tố trong từng cụm từ, một số tài liệu tiếng Anh đã viết hoa cả tính ngữ. Tuy nhiên, chúng ta cần phân định rõ văn phong tiếng Anh với văn phong tiếng Latin).
Khi chúng ta chuyển ngữ tên dược liệu thì tên cây lại trở về thể chủ cách, lúc ấy mới viết hoa.
Ví dụ: Radix stemonae tuberosae → Rễ cây Bách bộ Stemona tuberosa → The root of Stemona tuberosa species
II. Nguyên tắc viết tên Latin cây dược liệu:
Tên khoa học các cây dược liệu phải được viết theo nguyên tắc quốc tế về đặt tên thực vật. Nguyên tắc đó là:
1. Tên chi: là một danh từ luôn được viết hoa ở thể chủ cách.
2. Tên loài: Là một tập hợp hai từ, trong đó từ thứ nhất là tên chi, từ thứ hai là tính ngữ khoa học chỉ đặc điểm của loài, không viết hoa. Từ thứ hai có thể là danh từ hoặc tính từ.
Nếu là danh từ thì có hai khả năng:
- Danh từ đồng vị (cùng nghĩa hoặc có nghĩa gần) với danh từ chỉ tên chi: được viết ở thể chủ cách.
Ví dụ:

Cinnamomum cassia (Quế)
Areca catechu (Cau)
Danh từ không đồng vị với danh từ chỉ tên chi: phải viết ở thể sở hữu cách. Lúc này dù nó bắt nguồn từ tên người hoặc tên quốc gia cũng không viết hoa (vì không còn là danh từ riêng).
Ví dụ:

Pueraria thomsonii (Sắn dây)
Nếu là tính từ (có thể tính từ nguyên cấp hay tính từ so sánh) thì phải viết hợp giống với danh từ chỉ tên chi.
Ví dụ:

Taraxacum officinalis (Bồ công anh Trung Quốc)
Zingiber officinale (Gừng)
3. Nguyên tắc trích dẫn tên tác giả:
Để đảm bảo tính chính xác, sau tên khoa học của chi hay loài còn yêu cầu viết kèm tên tác giả công bố. Có thể đó là tên một người hoặc cùng lúc tên của nhiều người. Các tên này thường được viết tắt.
Để tránh nhầm lẫn, luật quốc tế về đặt tên thực vật qui định: Trong văn bản viết tay hoặc đánh máy chữ, tên loài phải được gạch chân, tên tác giả không gạch. Trong văn bản đánh máy vi tính hoặc in offset, tên loài phải được in nghiêng, còn tên tác giả in đứng.

 
 
 Thuật ngữ chi "giống" trong phân loại sinh vật

Khi học tập, nghiên cứu phân loại học sinh vật, một phạm trù không thể bỏ qua được là "Nguyên tắc phân loại". Một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của nguyên tắc phân loại là "Bậc phân loại", trong đó bậc loài được gọi là bậc phân loại cơ sở. Thuật ngữ quốc tế (viết bằng tiếng Latin) dành cho bậc này là species. Ngoài thuật ngữ quốc tế đó, sẽ có rất nhiều thuật ngữ tương đương do các nhà khoa học chuyên ngành của từng quốc gia chọn. Chẳng hạn như thuật ngữ tiếng Việt là "loài", tiếng Anh là "species", tiếng Pháp là "espèce"…
Một bậc phân loại trên bậc loài được viết bằng tiếng Latin là "genus", trong khi các nhà khoa học trên thế giới thống nhất dùng tiếng Anh là "genus", tiếng Pháp là "genre", thì các nhà khoa học Việt Nam đã không đồng nhất khi chọn một thuật ngữ tiếng Việt tương đương. Các nhà phân loại học thực vật dùng thuật ngữ "chi", các nhà phân loại học động vật dùng thuật ngữ "giống".


Chính đây là khía cạnh chúng tôi muốn trao đổi. Sinh viên khi được học cùng lúc cả hai môn học "phân loại thực vật" và "phân loại động vật" không khỏi băn khoăn về sự thiếu đồng nhất này và đôi khi lẫn lộn trong quá trình kiểm tra, thi cử hay viết khóa luận cuối khóa. Sự nhầm lẫn không dừng lại ở đó, đôi khi nó còn đeo đẳng gây bức rức cho họ suốt cả cuộc đời gắn bó với nghề nghiệp. Đó là một trùng lặp gây phiền toái về mặt học thuật cho bất kì ai khi thâm nhập vào lĩnh vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Bởi rằng, ai đã một lần học phân loại động, thực vật đều biết dưới bậc loài còn có những bậc phân loại dành để chỉ cho những nhóm sinh vật tuy cùng loài, nhưng mang những đặc điểm di truyền thể hiện qua kiểu hình (đặc điểm hình thái, cấu tạo, sinh lí…) khác nhau rõ nét, khiến loài người nói chung và các nhà sản xuất, các nhà khoa học nói riêng phân chúng thành những nhóm nhỏ và dùng một thuật ngữ nào đó gọi chung là các bậc dưới loài.
Trong khoa học, các bậc đó theo trình tự từ loài xuống dần là phân loài (L.: subspecies; E.: subspecies; F.: subespèce) thứ (L.: varietas; E.: variety; F.: variété), dạng (L.: forma; E.: form; F.: forme)*... Trong số đó, ở động vật học, cấp thường được dùng là phân loài, còn ở thực vật học thì cả phân loài và thứ, đôi khi còn cả dạng nữa.
Trong sản xuất, các cây trồng và vật nuôi luôn được chỉ thị bằng cấp bậc giống. Để biểu thị cho bậc giống này, đối với cây trồng gần như đa số nhiều nước trên thế giới dùng thuật ngữ "cultivar" là một từ viết gọn từ tiếng Anh cultivated variety, còn đối với vật nuôi thì "breed" là dạng viết gọn của "animal breed".
Đối chiếu với hệ thống phát sinh chủng loại, giống trong nông nghiệp có lúc là thứ (varietas), cũng có lúc là dạng (forma), thậm chí là một cấp thấp hơn. Ví dụ: trong lâm nghiệp vẫn thường gọi "giống thông Bahama, giống thông Honduras" để chỉ các thứ (varietas) thông thuộc loài thông Caribe (Pinus caribaea) được phát hiện ở Bahama và Honduras. Và giống thông Bahama đó mang tên khoa học là Pinus caribaea var. bahamensis, giống thông Honduras mang tên khoa học là Pinus caribaea var. hondurensis. Trong các tên khoa học đó, var. là từ viết tắt của varietas (thứ). Tương tự như thế, trong ngành cây cảnh và hoa, người ta vẫn gọi giống cô-tòng lá vặn với tên khoa học Codiaeum variegatum var. pictum  f. spirale. Trong đó f. là dạng viết tắt của forma (dạng).
Đôi khi, giống còn được chỉ tên bằng một kí hiệu hay một từ địa phương, chẳng hạn như trong nghề sản xuất lúa nước, ở Việt Nam đã và đang trồng phổ biến nhiều giống lúa thuộc loài Oryza sativa như Thần nông, VN, Khang dân, OM, MTL, CN, CR, IR, 13/2, gie, chùm, hẻo, chiêm…


Như vậy, đối với Thực vật học, chuyện dùng thuật ngữ cho các bậc phân loại dưới loài và cho bậc "genus" không có gì để bàn, vì không có sự trùng lặp. Điều cần bàn là đối với lĩnh vực  Động vật học.
Như đã nói ở trên, trong Phân loại học động vật, cấp "genus" không được gọi là chi như Thực vật học, mà được gọi là giống. Chính cách gọi này đã gây không ít khó khăn cho việc tiếp cận sản xuất. Nhiều giống vật nuôi hiện nay đều là những nhóm quần thể sinh học mang kiểu gen ở cấp dưới loài. Ngành nông nghiệp Việt Nam cũng đồng nhất với nông dân dùng thuật ngữ giống để chỉ một cấp bậc phân loại dưới loài. Chẳng hạn như cùng một loài heo nhà Sus domesticus, ở nông thôn Việt Nam đang tồn tại nhiều giống như Ba xuyên, Đại bạch, Ỉ, Lan Hồng, Mông cái, Thuộc nhiêu, Trắng Phú Khánh, Beshire, Duroc, Hamshire, Landrace,Yorshire… Tương tự như thế, trong mỗi loài bò, dê, gà, vịt cũng gồm nhiều giống khác nhau.


Suy cho cùng, người Việt Nam học phân loại sinh vật cuối cùng cũng để phục vụ sản xuất, bảo tồn đa dạng sinh học. Có nghĩa là,người học phân loại động vật khi ra trường cũng có lúc phải tiếp cận với môi trường chăn nuôi. Lúc đó, họ sẽ nhận ra điều gì khi phải lập một sơ đồ hệ thống phát sinh chủng loại, trong đó có đến 2 cấp giống như sau: 

Ngay thành ngữ "Con dòng cháu giống" cũng cho thấy rằng người Việt chúng ta đã dùng thuật ngữ giống từ xưa để chỉ một cấp phân loại dưới loài rồi. Tương tự như vậy, cụm từ cửa miệng của dân gian "giống nòi" lại là một minh chứng cho thấy từ "giống" luôn bao hàm một khái niệm về một quần thể sinh học dưới cấp loài. Vì ai cũng hiểu rằng, cho dù bất kì một chủng loại người nào, cho dù thuộc một dòng giống người nào… thì họ cũng chung một loài Homo sapiens và tất nhiên cùng thuộc "genus" Homo. Ở đây tôi tạm dùng thuật ngữ genus, vì tôi không muốn để từ giống vào, còn để từ chi thì chưa được phép. Bây giờ chúng ta thử thay thuật ngữ genus đó bằng thuật ngữ giống như lâu nay trong phân loại học động vật thường dùng thì sẽ thấy thế nào?

Vậy theo tôi, tại sao chúng ta không thống nhất dùng thuật ngữ "chi" cho cả phân loại học thực vật và phân loại học động vật? Dù sao thì đó cũng chỉ là một qui ước, và qui ước đó cũng chỉ cho chúng ta - người Việt. Làm như thế sẽ có được hai điểm lợi, thứ nhất là nhất quán trong lĩnh vực phân loại học sinh vật và thứ hai là tránh được sự trùng lặp khó hiểu. Từ đó cũng ít gây nhẫm lẫn trong truyền thông khoa học.

* Chú thích:  L.: tiếng Latin;  E.: tiếng Anh;  F.: tiếng Pháp

 DANH PHÁP LOÀI

Danh pháp loài bắt nguồn từ cách đặt tên đôi bằng tiếng Latinh (nomenclature binomial) do C. V. Linnaeus đề xướng năm 1753 và mãi tới năm 1867 mới chính thức được thế giới công nhận thông qua hội nghị quốc tế về thực vật học họp lần thứ nhất ở Paris. Về sau nhiều hội nghị thực vật học và động vật học tiếp theo đều thống nhất thừa kế qui tắc của Linnaeus để sửa đổi, bổ sung thành luật quốc tế về cách đặt tên thực vật (International Code Botanical Nomenclature, viết tắt là ICBN) và luật quốc tế về cách đặt tên động vật (International Code Zoological Nomenclature, viết tắt ICZN).
Theo luật Seattle (qua hội nghị quốc tế về luật danh pháp lần thứ XI năm 1969 tại Seattle - USA) và các luật bổ sung (qua các hội nghị quốc tế tiếp theo) thì danh pháp loài là một tổ hợp hai từ Latinh:
1.  Từ thứ nhất: là danh từ chỉ tên chi (đọng vật học gọi giống), luôn luôn viết hoa và viết ở chủ cách.
2. Từ thứ hai: được gọi là tính ngữ, nói lên đặc điểm nào đó của loài để phân biệt với các loài cùng chi, không viết hoa (kể cả trường hợp từ thứ hai là danh từ chỉ về tên người hay địa danh, bởi lẽ lúc đó nó đã được viết ở dạng thuộc cách hoặc đã được tính từ hóa). Tính ngữ có thể là danh từ hoặc tính từ:
2.1. Tính ngữ là danh từ: thì có 2 trường hợp xảy ra:
2.1.1. Danh từ  đồng vị (đồng nghĩa hoặc gần đồng nghĩa) với danh từ chỉ tên chi:
Trường hợp này danh từ thứ hai (dù thuộc Kiểu biến cách* nào) phải được viết cùng cách với danh từ chỉ tên chi.

Ví dụ:     
Tính ngữ là danh từ Kiểu biến cách I, viết ở dạng chủ cách:
Achras sapota (cây Xa-pô-chê)
Cinnamomum cassia (cây Quế)
Sus scrofa (Lợn rừng)
Tính ngữ là danh từ Kiểu biến cách II, viết ở dạng chủ cách:
Gliricidia sepium (cây Đỗ mai)
Nicotiana tabacum (cây Thuốc lá)
Tính ngữ là danh từ Kiểu biến cách III, viết ở dạng chủ cách:
Felis leo (Sư tử)
Panthera tigris (Hổ)
Panthera pardus (Báo hoa mai)
Trong một số danh pháp loài động vật có lúc danh từ thứ hai không những đồng vị mà là lặp lại danh từ chỉ tên chi và cũng phải được viết ở dạng chủ cách.
Ví du:                   
Astacus astacus (Tôm sông)
Bubalus bubalis (Trâu rừng)
Chanos chanos (cá Măng sữa)
Gallus gallus (Gà rừng)
Lutra lutra (Rái cá thường)
2.1.2. Tính ngữ không đồng vị với danh từ chỉ tên chi:
Trường hợp này danh từ thứ hai luôn luôn được viết ở thuộc cách. Danh từ đó có thể là tên người, địa danh, tên vật chủ kí sinh hay môi trường sống của loài.
Ví dụ:
Tính ngữ thuộc Kiểu biến cách I, viết ở cách 2:
Saccharomyces cerevisiae (nấm men lên men rượu) (cerevisia, ae. f.: rượu , bia)
Cercospora musae   (nấm bệnh đốm lá Chuối)  (musa, ae. f.: cây Chuối)
Cinnamomum balansae   (cây Vù hương)  (Balansa, ae. f.: Latinh hóa tên  riêng Balanse)
Tính ngữ thuộc Kiểu biến cách II, viết ở cách 2:
Bombyx mori  (Tằm tơ, Tằm dâu)     (morus, i. n.: cây Dâu tằm)
Hopea pierrei ( cây Kiền kiền)   (Pierreus, i. m.: Latinh hóa tên riêng Pierre)
Tính ngữ thuộc Kiểu biến cách III, viết ở cách 2:
Aphis maydis  (Rệp hại Ngô)   (mays, maydis. f.: cây Ngô)
Puccinia arachidis  (nấm bệnh rỉ sắt ở cây Lạc) (Arachis, -idis. f.: cây Lạc)
2.2. Tính ngữ là tính từ:
2.2.1. Tính ngữ là tính từ nguyên cấp
Nếu từ thứ hai là tính từ, thì nó phải được viết hợp từ với từ thứ nhất về giống, số và cách. Tính từ dùng có thể thuộc bất kì một Kiểu biến cách** nào kể cả tính từ cấp so sánh. Nó được dùng nhằm diễn đạt một đặc điểm nào đó của loài.
Ví dụ:
Tính ngữ là tính từ thuộc Kiểu biến cách đầu:
Anopheles vagus  (Muỗi sốt rét) (vagus, a, um: ngao du, hay thay đổi)    
Sus domesticus (Lợn nhà)  (domesticus, a, um: thuộc về nhà, thuần dưỡng)
Neofelis nebulosa (Báo gấm) (nebulosus, a, um: như sương mù, như gấm)
Tính ngữ là tính từ thuộc Kiểu biến cách sau:
Citrus grandis (cây Bưởi)  (grandis, is, e: to lớn)           
Dalbergia bariensis  (cây Cẩm lai)  (bariensis, is, e: ở Bà Rịa)
Prionodon pardiciolor (Cầy gấm)  (pardicolor, -oris: có màu như Báo đực)
2.2.1. Tính ngữ là tính từ cấp so sánh
Tính từ cấp so sánh đôi lúc cũng được dùng đặt ở vị trí thứ hai trong danh pháp loài. Cũng như tính từ nguyên cấp, ở đây tính từ cấp so sánh cũng chỉ đặc điểm của loài và được viết hợp từ với danh từ chỉ tên chi.
Ví dụ:
Anopheles minimus (muỗi sốt rét)  (minimus, a, um: nhỏ nhất)
Caesalpinia pulcherrima (cây Kim phượng) (pulcherrimus, a, um: đẹp nhất)
Elephas maximus (Voi châu Á)  (maximus, a, um: lớn nhất)
Parus major (chim Bạc má)  (major, -jor, -jus: lớn hơn)
3. Trường hợp ngoại lệ:
Trường hợp trong danh pháp loài thực vật, sau tên chi cần thiết phải dùng hai từ để diễn đạt đủ ý về loài, thì hai từ đó phải nối với nhau bằng dấu gạch ngang, ví dụ như Lagerstroemia flos-reginae (Bằng lăng nước), Strychnos nux-vomica (Mã tiền), Coix lacryma-jobi (Bo bo)... Trong danh pháp loài động vật, nếu sau tên chi phải dùng hai từ thì hai từ đó được viết liền nhau, ví dụ như Coluber novaehispaniae (thay vì C. novae hispaniae), Calliphora terraenovae (thay vì C. terrae novae) [Mayer, 1969]. Nếu thấy một danh pháp động vật bao gồm 3 từ viết độc lập nhau thì đó là danh pháp của phân loài (subspecies), ví dụ như Prestylis francoisi francoisi (Voọc đen má trắng), Prestylis francoisi delacouri (Voọc đen mông trắng), Prestylis francoisi hatinhensis (Voọc đen Hà Tĩnh)... Ở danh pháp thực vật có cách viết hơi khác, khi muốn chỉ tên một phân loài người ta viết tên loài rồi viết tiếp chữ viết tắt ssp. (subspecies) sau đó thêm một tính ngữ,. ví dụ: Dimocarpus fumatus ssp. indochinensis (Nhãn Đông dương). Hoặc để chỉ tên một taxon dưới loài, người ta cũng dùng 3 từ nhưng giữa từ thứ hai và thứ ba có viết chèn chữ viết tắt thứ bậc phân loại var.(varietas: thứ), f. (forma: dạng).... Ví dụ Avicennia marina var. rhumphiana [Mắm đen, một thứ (varietas) trong loài Mắm biển].
Một loài nào đó được xác định là có thực nhưng chưa được giám định chính xác, chưa thể công bố tên thì người ta viết tên chi kèm chữ sp., ví dụ như Acacia sp.. Khi muốn ám chỉ nhiều loài cùng chi trong một quần xã thực vật nào đó chưa được xác định chính xác người ta ghi tên chi kèm chữ spp., ví dụ như Acacia spp.

 DANH PHÁP CÁC TAXON THUỘC CÁC BẬC PHÂN LOẠI TRÊN LOÀI

1. DANH PHÁP CHI
Là một danh từ hoặc một từ nào đó được coi là danh từ chủ số ít được viết ở vị trí thứ nhất trong danh pháp loài. Danh từ này có thể bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau:
Từ tên gọi Latin của một cây, con nào đó đã có sẵn hoặc một tên gọi cây, con bằng tiếng Anh, Pháp,... được Latin hóa như: Quercus(cây Sồi), Rosa (cây Hoa hồng), Piper(cây Tiêu)...
Bắt nguồn từ tên một nhà thực vật học như: Caesalpinia (từ tên riêng Caesalpin), Bauhinia (từ tên riêng Bauhin), Tournefortia (từ tên riêng Tournefort)...
Từ một địa danh như: Washingtonia (từ địa danh Washington), Taiwania (từ địa danh Taiwan)...
Ghép một tiếp đầu ngữ hay một gốc từ với một tên chi có sẵn như:

Neolitsea

Được ghép bởi
Neo+ Litsea

Nothofagus  

-

Notho + Fagus

Dendropanax  

-

Dendro + Panax

Acanthopanax

-

Acantho + Panax

Allospondias  

-

Allo + Spondias

Parashorea  

-

Para + Shorea

Neofelis

-

Neo + Felis

Metapenaeus

-

Meta + Penaeus

Parapenaeus

-

Para + Penaeus

Ghép một tiếp đầu ngữ hay một gốc từ với một gốc từ bất kì như:

Rhododendron

Được ghép bởi

Rhodo + dendron

Pterospermum  

-

Ptero + spermum

Pterocarpus  

-

Ptero + carpus

Dipterocarpus  

-

Diptero + carpus

Calophyllum  

-

Calo + phyllum

Ophiocephalus

-

Ophio + cephalus

Decapterus

-

Deca + pterus

Pseudoryx

-

Pseud + oryx

Capricornis

-

Capri + cornis

2. DANH PHÁP HỌ
Trong thực vật học, để có danh pháp các taxon bậc họ người ta lấy thân từ của chi mẫu (chi tiêu biểu của họ) ghép thêm hậu tố -aceae.
Cần biết rằng, tên chi có thể là danh từ thuộc nhóm đồng âm tiết, cũng có thể thuộc nhóm dị âm tiết. Trong mỗi trường hợp cách lấy thân từ có khác nhau:
Đối với những tên chi là danh từ thuộc nhóm đồng âm tiết, chỉ cần cắt bỏ đuôi từ (âm cuối bắt đầu bằng nguyên âm) là có thân từ

Ví dụ:

Magnolia

Magnoli

Magnoliaceae

Pinus

Pin

Pinaceae

Podocarpus

Podocarp

Podocarpaceae

Pterocarpus

Pterocarp

Pterocarpaceae

Đối với những tên chi là danh từ thuộc nhóm dị âm tiết, phải lấy thân từ ở cách 2 (sở hữu cách) số ít, có nghĩa là chuyển danh từ tên chi sang cách 2 số ít rồi bỏ đuôi từ để có thân từ

Ví dụ:

Tên chi
Cách 2
Thân từ
Tên họ

Juglans

Juglandis

Jugland-

Juglandaceae

Salix

Salicis

Salic-

Salicaceae

Styrax

Styracis

Styrac-

Styracaceae

Trong động vật học, để có tên họ người ta lại dùng hậu tố -idae (trùng với hậu tố trong danh pháp phân lớp ở thực vật) để nối vào thân từ của danh pháp chi.
Ví dụ :

Hylobates

  Hylobat

 Hylobatidae

Canis

  Can

 Canidae

Felis

   Fel

 Felidae

Nhưng một số họ thì:

Anas

Anatis

Anat

 Anatidae

Gecko

Geckonis

Geckon

 Geckonidae

3. DANH PHÁP CÁC TAXON TRÊN HỌ
Trong thực vật học, để có danh pháp taxon các bậc trên họ, người ta thực hiện như sau:
Danh pháp bộ: ghép hậu tố -ales vào thân từ của tên họ mẫu
Danh pháp lớp: ghép hậu tố -opsida vào thân từ của tên bộ mẫu
Danh pháp ngành: thay hậu tố -psida của tên lớp mẫu bằng hậu tố -phyta
Trong động vật học thì rất phức tạp, tùy nhóm thú, chim, cá, thân mềm... và thậm chí trong từng nhóm còn tùy thuộc từng bậc mà có những hậu tố khác nhau rất nhiều. Chẳng hạn như
* Lớp chim (Aves) và lớp cá (Pisces) có các bộ mang hậu tố -iformes
* Lớp thú (Mammalia), lớp côn trùng (Insecta) có các bộ mang những hậu tố rất đa dạng, khó hệ thống hóa như: -ptera, -odea, -ates, idea, ... có khi là một danh từ ghép bởi một tiền tố hay một gốc từ với một gốc từ hay với một hậu tố nào đó, như Taxo-donta, Archae-o-gastro-poda, Deca-poda...
Trong lúc đó ở thực vật học, chỉ có một số trường hợp đặc biệt có dùng những hậu tố khác đi, nhưng cũng được qui tắc hóa:
 Đối với Tảo:
* Danh pháp lớp có hậu tố -phyceae
 Đối với Nấm:
* Danh pháp ngành có hậu tố -mycota
* Danh pháp lớp có hậu tố -mycetes

* Danh pháp phân lớp có hậu tố -mycetidae.




Hướng dẫn học tiếng Thái Lan căn bản
Kinh nghiệm học tiếng Đức
Kế hoạch học tiếng Nhật hiệu quả
Kinh nghiệm học tiếng Nhật
Kế hoạch học Tiếng Anh hiệu quả

(st)