Sử dụng tai nghe không đúng cách sẽ dẫn đến những hiểm họa khôn lường
Cách sơ chế nấm tươi và bảo quản nấm đúng cách
Hướng dẫn làm chuông gió Nhật Bản xinh xắn
Cùng tham khảo những hướng dẫn trồng cây bạc hà đúng cách nhé. Bạc hà là một vị thuốc rất phổ thông ở nước ta. Nó được dùng trong cả đông y và tây y.
Hướng dẫn cách trồng cây bạc hà
Bạc hà còn có tên là bạc hà nam (Mentha piperita), là cây rau gia vị lấy lá để ăn cùng với các loại rau ăn sống, rau ghém như xà lách, rau muống chẻ, thân và hoa chuối. Một số món ăn như bún bò Huế, chả gió (nem Sài Gòn)…nếu thiếu bạc hà sẽ kém hương vị.
Bạc hà còn dùng chữa một số bệnh như cảm cúm, xổ mũi…do lá cây chứa nhiều tinh dầu. Một số nơi trồng bạc hà trên diện tích lớn làm dược liệu, chủ yếu là chiết xuất tinh dầu để sản xuất dầu gió dùng xoa bóp, chống nghẹt mũi, cảm gió…
1. Mô tả cây bạc hà
Bạc hà là loại cây thân thảo, sống lâu năm. Câu cao 60 – 80 cm, mọc đứng hoặc hơi bò, phân nhánh. Thân hình vuông, màu xanh hoặc tím nhạt, có nhiều lông ngắn.
Lá hình trứng hoặc thon dài, phiến lá dài 3 – 5 cm, rộng 2 – 3 cm, có cuống dài 0,5 – 1,0 cm, mép lá có răng cưa. Mặt trên và mặt dưới lá có nhiều lông tơ nhỏ. Lá bạc hà chứa nhiều tinh dầu và mùi thơm nóng.
Hoa mọc từ nách lá, màu trắng, tím hoặc hồng nhạt, cánh hoa hình môi. Cây bạc hà ít có quả và hạt.
cây bac hà
Cây bạc hà có thể trồng trên nhiều loại đất như đất thịt, đất cát, đất xám…nhưng không bị phèn hoặc mặn, phải cao ráo, thoát nước. Tốt nhất là đất có nhiều mùn.
Đất cần cày bừa kỹ, phơi ải, đập nhỏ và nhặt sạch cỏ. Lên luống rộng 1,0 – 1,2 m, cao 20 – 25 cm, giữ các luống có rãnh rộng 30 – 40 cm. Nếu ruộng trước đó có trồng lúa thì đào rãnh lên luống, rãnh rộng và sâu 40 – 50 cm, đất đào rãnh đắp lên thành luống.
2.2.Trồng cây:
Ở phía Nam cây bạc hà có thể trồng quanh năm. Ở phía Bắc trồng từ tháng 5 đến tháng 10, khi trồng nóng ấm và có mưa.
Cây bạc hà chủ yếu trồng bằng thân, cành. Cắt thành từng đoạn dài 10 – 15 cm, có 3 – 4 mắt. Đất sau khi làm kỹ, lên luống và bón phân lót, rạch từng hàng cách nhau 20 cm, sâu 10 cm. Đặt nghiêng đoạn hom xuống rãnh cách nhau 20 cm, lấp đất kín 2/3 hom, nén nhẹ để hom tiếp xúc với độ ẩm của đất thuận lợi chp nảy mầm.
Sau khi trồng, hàng ngày tưới ẩm theo hàng. Sau 5 – 7 ngày đoạn thân mọc thành cây lên khỏi mặt đất.
2.3. Bón phân:
Lượng phân bón cho 1 ha khoảng 15 – 20 tấn phân chuồng hoai, 300 – 400 kg super lân, 200 – 300 kg urê và 300 – 400 kg kali clorua. Có bón thêm 500 kg bánh dầu hoặc thay ure và lân bằng 500 kg DAP.
Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân và 2/3 kali trên luống trước khi trồng. Phân ure và 1/3 kali còn lại dùng bón thúc 3 – 4 lần sau khi cây cao 10 – 15 cm và cách 15 ngày bón thúc một lần sau mỗi đợt thu hoạch. Nếu có bánh dầu thì dùng bón lót 2/3, số còn lại để bón thúc. Phân DAP cũng chủ yếu dùng bón thúc. Cách bón thúc là hòa nước tưới xuống gốc.
2.4.Chăm sóc:
Nếu đất khô cần tưới cho đủ ẩm, nhất là sau các đợt thu hoạch kết hợp bón phân thúc để cây nảy chồi nhanh và đều.
Trong cả vụ xới đất vun gốc vài lần cho đất tơi xốp và hạn chế cỏ. Ngoài ra thường xuyên nhổ cỏ sạch sẽ, ngắt bỏ thu gom các lá gốc già úa.
3. Phòng trừ sâu bệnh
3.1. Sâu hại:
Chủ yếu là các loại bọ trĩ, rầy và rệp. Đây là những loài sâu có kích thước rất nhỏ, thường bám trên đọt và lá non, chích hút nhựa làm lá xoăn, đọt chùn lại, cây sinh trưởng kém. Trong mùa khô còn có loài rệp phấn (rệp sáp giả) phá hại rễ làm cây vàng úa, khô héo và có thể bị chết từng chòm.
Phòng trừ các loại sâu trên bằng phun các thuốc Vibamec, Vertimec, Vimeem, GC-Mite, Dibonin, Confidor… Trừ rệp hại gốc dùng thuốc Padan, Pyrinex, Vibasu…hòa nước tưới.
3.2 Bệnh hại:
Bệnh hại cần chú ý là bệnh héo vàng do các nấm Fusarium và Rhizoctonia. Nấm trong đất phá hại bộ rễ làm cây héo vàng và chết. Nhiều trường hợp rệp phấn và nấm cùng phá hại làm cây chết nhanh hơn.
Phòng trừ bệnh héo vàng chủ yếu là làm đất kỹ. phơi ải, bón thêm vôi. Khi trên ruộng có bệnh nhổ bỏ cây bị bệnh nặng mang ra xa vườn tiêu hủy rồi rắc vôi vào đất. Dùng các thuốc gốc đồng phun đẫm vào gốc cây kết hợp xới đất vun gốc.
Ngoài ra còn có bệnh đốm lá và héo xanh vi khuẩn gây hại rải rác.
4. Thu hoạch
4.1. Làm rau gia vị:
Thường sau khi trồng khoảng 1 tháng là có thể thu hoạch. Sau đó trung bình 15 ngày thu hoạch một lần. Khi thu hoạch cắt đoạn thân phía trên để lại gốc dài khoảng 10 – 15 cm, tưới phân thúc cho cây tái sinh mạnh. Thu hoạch 7 – 8 lần thì cây già, khả năng tái sinh kém, năng suất giảm, lúc này nhổ bỏ hết, làm đất phơi ải để trồng lại.
4.2. Để chưng cất tinh dầu:
Chưng cất tinh dầu thì nên để cây già khoảng 3 – 4 tháng thì thu hoạch lứa đầu. Trung bình sau 2 tháng thì thu một lứa. Sau mỗi lần cắt thì bón thúc, xới đất làm cỏ và vun gốc. Mỗi năm có thể thu 20 - 30 tấn thân lá tươi/ha, chưng cất được 50 – 70 lít tinh dầu. Trồng 1 – 2 năm rồi luân canh với cây họ đậu hoặc bắp, sau đó mới trồng lại. Trồng bạc hà liên tục nhiều năm năng suất giảm, sâu bệnh nhiều.
Giống như cây bạc hà còn có cây húng lủi, cũng gọi là húng láng (Mentha aquatica). Đặc tính, công dụng và kỹ thuật trồng trọt tương tự nhau.
Bạc hà là một loại hoa màu xưa nay được bà con nông dân trồng một ít xen chân vườn để dùng chế biến các món ăn trong gia đình như nấu canh chua, xào, bóp xổi chấm nước cá kho... Thế nhưng gần 3 năm nay, bạc hà là một trong các loại hoa màu được ưa chuộng. Hiện nay, Ngũ Hiệp là địa phương có diện tích trồng bạc hà nhiều nhất huyện Cai Lậy.
Ông Bùi Văn Kịp - Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngũ Hiệp cho biết: "Trước đây, bà con trồng tự phát chỉ vài hecta, gần 3 năm nay thấy có đầu ra ổn định, chi hội nông dân các ấp phát động, cho nên diện tích trồng năm sau cao hơn năm trước". Hiện toàn xã Ngũ Hiệp có khoảng 140 hecta diện tích trồng bạc hà, trong đó ấp Tân Sơn trồng nhiều nhất đến 80 hecta, còn lại mỗi ấp khoảng 10 hecta. Điều đáng nói ở đây, bạc hà ổn định cả đầu vào lẫn đầu ra.
Bà Mai thị Tám ngụ ấp Tân Sơn bộc bạch: "Bạc hà là cây ít vốn, nhưng phải chịu khó bỏ công chăm sóc thường xuyên mới thu hoạch được nhiều, cả thân, lá và con giống!. Bà Tám trồng bạc hà xen vào 7,8 công sầu riêng, trừ chi phí mỗi năm bà còn lời được 30-40 triệu đồng. Bà cho biết: "Tháng nắng giá cao từ 2.800-3.100đ/kg mà không đủ bán, còn tháng mưa bán chỉ được 1.300-1.400đ/kg, nhưng cũng có giá hơn mấy năm trước!".
Một điều đáng nói nữa là đến đợt thu hoạch, chủ vườn khỏi phải cực nhọc, thương lái đến thỏa thuận giá cả với hình thức mua đứt bán đoạn, sau đó tự họ vào vườn cắt. Được biết, sau mỗi đợt cắt bán, nhà vườn phải rải qua một ít phân để cây tiếp tục phát triển. Trước đây, các thương lái đa số là người địa phương, nhưng nay thương lái khắp nơi đổ xô đến tranh nhau để mua, cho nên việc mua bán của bà con nông dân ở đây gặp nhiều thuận lợi. Bà con cho biết: mỗi ngày một thương lái có thể giao từ - 4 tấn bạc hà tận chợ Vĩnh Kim và thành phố Hồ Chí Minh.
Thấy mô hình này đạt hiệu quả kinh tế cao trong việc "lấy ngắn nuôi dài", người dân cù lao Tân Phong đã sang học hỏi kinh nghiệm về cách trồng, cách chăm sóc từ người dân Ngũ Hiệp. Hiện ở Tân Phong tính đến thời điểm này toàn xã có khoảng 20 hecta trồng mới cây bạc hà.
Trồng bạc hà xen chân vườn là một mô hình có lợi rất nhiều mặt, đây là niềm vui chung cho người nông dân trên đất cù lao Tân Phong. Hy vọng rằng đầu ra luôn được duy trì ,nhằm giúp cho nhà vườn có điều kiện ổn định phát triển sản xuất, tăng thu nhập kinh tế gia đình.
phương thuốc từ cây bạc hà
Tên khoa học Mentha arvensis L.
Thuộc họ Hoa môi Lamiaceace (Labiatae).
Bạc hà là một vị thuốc rất phổ thông ở nước ta. Nó được dùng trong cả đông y và tây y. Cây bạc hà cho những vị thuốc chủ yếu sau đây:
Bạc hà (Mentha hay Herba Menihae) là toàn bộ phận trên mặt đất, tươi hay phơi hoặc sấy khô của cây bạc hà.
Bạc hà diệp (Folium Mentbae) là lá bạc hà tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Tinh dầu bạc hà (Oleum Menthae) là dầu cất từ cây bạc hà.
Mentol hay bạc hà não (Mentol-Menthol) là chất đặc, trắng chiết từ tinh dầu bạc hà ra.
. Với tinh dầu bạc hà và mentol, người ta còn chế nhiều dạng thuốc rất phổ thông khác như dầu cù là nước hoặc cao (dầu con hổ), kẹo ngậm ho bạc hà, rượu bạc hà, thuốc đánh răng bạc hà v.v. ..
Tuy là một vị thuốc rất phổ biến, nhưng ta mới tự túc được lá và cây bạc hà, còn tinh dầu và mentol vẫn phải nhập rất nhiều.
Về mặt thực vật cần phân biệt nhiều loài bạc hà hiện có ở nước ta. Loài chủ yếu thường gặp là loài Mentha arvensis L. mọc hoang rất nhiều ở nước ta, nhưng qua mấy năm điều tra, chúng tôi chưa thấy lại. Tuy nhiên trong thời gian từ năm 1955 đến nay, chúng tôi đã di thực được loài Mentha piperita L. này bằng hạt nhập được ở Pháp (1956) và dây giống bạc hà của Liên Xô cũ (1958) hiện nay đã phổ biến đi nhiều nơi và của Đức (1962) ở nước ta.
Cây bạc hà Mentha arvensis L. còn có tên là bạc hà nam là một loại cỏ sống lâu năm, cao từ 10 đến 60-70cm, có thể cao tới 1m, thân vuông mọc đứng hay hơi bò, có khi phân nhánh, trên thân có nhiều lông. Lá mọc đối, cuống dài từ 2 đến 10mm, phiến lá hình trứng hay thon dài, rộng 2-3cm, dài 3-7cm, mép có răng cưa, mặt trên và mặt dưới đều có lông che chở và lông bài tiết. Hoa mọc vòng ở kẽ lá, cánh hoa hình môi màu tím hay hồng nhạt có khi màu trắng. ít khi thấy có quả và hạt. Ngoài loài bạc hà mọc hoang dại ở nước ta, gần đây đã nhập một số chủng cùng loài có năng suất tinh dầu cao như BH 974 (đưa vào nước ta từ tháng 9-1974), BH 975 (đưa vào nước ta từ tháng 9-1975) và BH976 (xuất xứ từ Triều Tiên, đưa vào nước ta từ tháng 9-1976). Hai loại 974 và 975 được xác định thuộc loài Mentha haplocalyx Briq. (nhóm Mentha arvensis).
Cây bạc hà mọc hoang và đuợc trồng tại nhiều vùng ở nước ta, mọc hoang cả ở miền đồng bằng và ở miền núi. Chúng tôi đã phát hiện mọc hoang nhiều ở Sapa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây), Bắc Cạn, Sơn La.
Sau 25 năm nghiên cứu của chúng tôi (1955- 1980) cây bạc hà trước đây chỉ mới được trồng trên quy mô tương đối lớn ở các làng Nghĩa trai (Hưng Yên), Đại Yên (Hà Nội) và rải rác ở nhiều tình khác để lấy lá và cây làm thuốc. Đã bắt đầu được trồng để cất tinh dầu. Năm 1958 tại huyện Gia Lâm-Hà nội, vườn trồng bạc hà thí điểm của trườmg Đại học Dược khoa Hà nội đã được trang bị nồi cất tinh dầu. Năm 1972, cả nước ta lần đầu tiên đã tự sản xuất được 60 tấn tinh dầu bạc hà và sản xuất được một tấn menthol tinh thể.
Tại các nước khác, loài bạc hà này còn được thấy khai thác ở Trung Quốc (Hắc Long Giang, Cát Lâm, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam v.v...), Nhật Bản (nổi tiếng vì tinh dầu chứa nhiều mentol nhất, 80-90%). Từ năm 1974, ở nước ta đã có chủng loại bạc hà Nhật Bản này.
Muốn trồng bạc hà tốt nhất cần chọn nơi đất sét có nhiều mùn, sau đến loại đất cát. Đất cần làm cỏ bón phân kỹ trước, làm luống rộng, trên mỗi luống trồng 2-3 hàng. Có hai mùa trồng bạc hà vào mùa xuân và thu. Mùa xuân vào các tháng 2-3, mùa thu vào tháng 8-9. Tốt nhất là trồng vào mùa xuân cho năng suất cao nhất. Trồng bằng hạt hay bằng mẩu thân, hoặc thân ngầm. Có thể trồng bằng hạt nhưng rất ít áp dụng. Sau 3-4 tháng có thể thu hoạch đợt đầu, thường một năm có thể cắt cây 3 hay 4 lần, lần thứ nhất vào tháng 6-7, sau đó cần xới và bón phân, sau 2 tháng (vào cuối tháng 8 hay tháng 9) lại hái lần nữa vào lúc cây đang ra hoa nhiều. Nếu hái 4 lần thì có thể hái lứa đầu vào tháng 6-7, lứa thứ hai vào tháng 8-9, lứa thú ba vào tháng 10-11, lứa thứ 4: 2-3. Hái về, cần bó lại từng bó, phơi chỗ mát cho khô hoặc nếu cất tinh dầu thì cần cất ngay hay để hơi héo mà cất.
Hiệu suất trung bình là 25 đến 40 tấn cây tươi mỗi năm, mỗi hecta, cất được từ 50 đến 100 lít tinh đầu. Theo tài liệu của các nưóc thì hiệu suất 1 hecta trung bình hằng năm cũng là 10-12 tấn cây tươi, có những năm hoặc những nơi chăm sóc tốt có thể tới 20 đến 35-40 tấn, đặc biệt có nơi hiệu suất đạt tới 70 tấn 1 hecta, cất được từ 20-150 lít tinh dầu.
Nếu trồng mãi trên một diện tích thì hiệu suấl năm đầu và năm thứ hai cao, năm thứ ba giảm xuống chỉ còn chừng 1/3. Với loài bạc hà Liên Xô cũ mà chúng tôi di thực vào, mùa trồng thích hợp nhất ở đồng bằng là mùa thu (tháng 8-9), thu hoạch lứa đầu vào tháng 10-11, lứa hai vào tháng 2-3, tinh dầu thơm dịu hơn bạc hà của ta, nhưng năng suất cây thấp hơn.
C.Thành phần hoá học
Hoạt chất chủ yếu trong bạc hà là tinh dầu bạc hà. Tỷ lệ tinh dầu trong bạc hà thường từ0,5 đến 1%, có khi có thể lên tới 1,3-1,5%. Bằng phương pháp lựa chọn giống, Liên Xô cũ đã có những loại bạc hà đạt tới 5,2 đến 5,6% tinh dầu (tính trên cây, đã trừ độ ẩm). Ngoài tinh dầu, trong cây bạc hà còn có các flavonozit.
Thành phần chủ yếu trong tinh dầu bao gồm những chất sau đây:
Mentola Cl0H19OH có trong tinh dầu vói tỷ lệ 40-50%, loài của Trung Quốc và Nhật Bán có thể lên tới 70-90%. Mentola ở trong tinh dầu chủ yếu ở trạng thái tự do nhưng một phần ở dạng kết hợp với axit axetic.
Mentol C1()H18O chừng 10 đến 20% trong tinh dầu bạc hà Trung Quốc.
D.Tác dụng dược lý
Tại chỗ, tinh dầu bạc hà và mentola bốc hơi rất nhanh, gây cảm giác mát và tê tại chỗ, dùng trong một sô' trường hợp đau dây thần kinh, còn có tác dụng sát trùng mạnh thường dùng trong một sô' trường hợp ngứa của một số bệnh ngoài da, bệnh về tai mũi họng. Tay nhiên cần biết rằng tinh dầu bạc hà và mentola bôi mũi hay bối trong cổ họng có thể gây hiện tượng ức chế có thể tới ngừng thở và tim ngừng đập hoàn toàn. Hiện tượng này hay xảy ra nhất là đối với trẻ con ít tuổi. Người ta đã nhận xét thấy một số trường hợp chết do nhỏ mũi 1 giọt dầu mentola 1% hoậc bôi vào niêm mạc mũi một ít thuốc mở có mentola. Do đó chúng ta cần hết sức thận trọng khi dùng tinh dầu hạc hà hay dầu cù là cho trẻ con ít tuổi, nhất là trẻ con mới đẻ.
Bạc hà, tinh dầu bạc hà hay mentola uống với liều rất nhỏ có thể gây hưng phấn, xúc tiến sự bài tiết của tuyến mồ hôi, làm cho nhiệt độ cơ thể hạ thấp. Liều lớn, có tác dụng kích thích tuỷ sống, gây tê liệt phản xạ và ngăn sự lên men quá bình thường trong ruột.
E.Công dụng và liều dùng
Bạc hà là một vị thuốc thơm, dùng làm cho thuốc thơm dễ uống, làm ra mồ hôi, hạ sốt dùng chữa cảm sốt, cảm mạo, mũi ngạt, đầu nhức, còn giúp cho sự tiêu hoá, chữa kém ăn, ăn uống không tiêu, đau bụng đi ngoài.
Tinh dầu bạc hà và mentola dùng làm thuốc sát trùng, xoa bóp nơi sưng đau, như khớp xương, thái dương khi đầu nhức. Theo Lesieur và J. Meyer bạc hà là một vị thuốc chữa loét dạ dày, làm giảm bài tiết dịch vị và giảm đau.
Tính chất của bạc hà theo các tài liệu cổ ghi như sau: Vị cay, mát không độc, vào 2 kinh phế và can, có tác dụng tán phong nhiệt, ra mồ hôi, giảm uất, làm thuốc thanh lương dùng chữa cảm nắng (trúng thử), đau bụng, bụng đầy, chứng ăn không tiêu.
Liều dùng lá và toàn cây:
Ngày uống từ 4 đến 8g dưới dạng thuốc pha.
Tinh dầu VÀ mentola:
Một liều 0,02 đến 0,2ml, một ngày 0,06 đến 0,6ml.
Còn dùng dưới Kình thức cồn bạc hà (lá bạc hà 50g, tinh dầu bạc hà 50g, cồn vừa đủ 1 lít), ngày dùng nhiều lần, mỗi lần từ 5 đến 10 hay 15 giọt, cho vào nước nóng mà uống.
Đơn thuốc có bạc hà (lá và toàn cây)
Thuốc chữa nôn thông mật giúp sự tiêu hoá.
Lá bạc hà hay toàn cây bạc hà bỏ rễ 5g, pha vào 200ml nước sôi, cách 3 giờ uống 1 lần.
Có thể dùng cồn bạc hà theo công thức kể trên để uống thay, mỗi lần uống 5 đến 10 giọt hay hơn.
Chè chữa cảm mạo, nhức đầu:
Lá bạc hà 6g, kinh giới 6g, phòng phong 5g, bạch chỉ 4g, hành hoa 6g. Nước sôi đổ vào chờ 20 phút, uống lúc đang nóng.
Chú thích:
Ngoài loài bạc hà nam kể trên, trên thế giới và ngay ở nước ta còn dùng nhiều loại bạc hà khác sau đây:
Bạc hà châu  u - Mentha piperita L.
Loài này mọc và được trồng chủ yếu ở các nước châu Âu, châu Mỹ. Bản thân loài này cũng không phải là một loài dòng mà do lai nhiều loài khác nhau, giá trị cũng thay đổi tuỳ theo nơi mọc. Cho nên trong loài Mentha piperita, người ta cho rằng tốt nhất là loài nguồn gốc vùng Mitcham ở Anh. Những nước khác phần nhiều đều lấy giống ở đây về trồng, từng thời kỳ lại phải tới đó lấy giống lại. Trong loài này người ta còn phân biệt ra hai dạng
a/ Dạng xanh hay trắng Mentha piperita var. officinalis forma paliescens có nghĩa là nhạt màu, màu vàng nhạt), hay White mịn;
b/ dạng đỏ hay tím Mentha peperita var. officinalis forma rubesccns Camus hay Black mint hay Menthe poivréc noire (rubescens có nghĩa là đỏ).
Cả hai thứ đều thân vuông, gần như không lông, cao chùng 0,50m cụm hoa mọc thành bông ở đầu cành, khác với loài M. arvensis có cụm hoa mọc ở kẽ các lá. Thứ pallescens có thân và lá màu xanh nhạt, hoa màu trắng nở rất rõ, thứ rubescens có thân và lá điểm tía, hoa màu đỏ nâu, nở không rõ. Tinh dầu loài này mùi thơm mát chứ không hắc như tinh dầu bạc hà M. arvensis, nhưng trong tinh dầu tỷ lệ mentol thường thấp hơn 40-65%, menton 6-18%, ngoài ra còn các este axetat, butyrat và izovalerianat mentola. Chính trong các loài này, các nhà khoa học Liên Xô cũ đã lựa chọn được loài bạc hà số 541 có tới 5,2% tinh dầu trong đó có tỷ lệ tinh dấu tới 64,4% mentola loài bạc hà lai số 272 có 5,6% trong đó tỳ lệ mentola là 58,8%.
Nãm 1958, chúng tôi có xin được loài bạc hà lai số 272 của Liên Xô cũ mang về uồng thử hiện nay được phổ biến ở nhiều tỉnh miền Bắc nhưng vào hoàn cảnh Việt Nam bị thoái hoá dần. Tuy nhiên tỷ lệ tinh dầu vẫn cao, 2-3%, mùi rất thơm mát, cần tiếp tục phát triển và nếu có điều kiện cần di thực thêm giống để trồng.
Bạc hà Nhật Bản Mentha arvenis L. var. piperascens Malinv. Qua sự nghiên cứu những năm gần đây, người ta cho loài này thực ra cũng do sự lai tạp giữa loài Mentha arvensis L. và loài Mentha aquatica L. Loài này được trồng ở Nhật Bản, lá rất giống lá bạc hà M. arvensis nói trên. Cây bạc hà này hái đợt đầu cho hiệu suất tinh dầu là 0,66%-, hái lần thứ hai 1,6%, lần thứ ba có tỷ lệ 1,57%, bình quân là 1,28%, trong tinh dầu tỷ lệ mentol là 70-90%, menton là 10-20%, ngoài ra còn pinen, nói chung gần như loài của Trung Quôc.
Loài bạc hà cho tinh dấu lưu lan hương còn gọi là lục bạc hà-Mentha viridis L. (Mentha spicata L.), được trồng ở các nước Âu Mỹ, gần đây thấy Trung Quốc có khai thác và bán tình dầu sang cho ta. Theo giáo sư Tôn Hùng Tài (Trung Quốc) thì loài bạc hà cho tinh dầu lưu lan hương trồng thí nghiệm ở Nam Kinh, thuộc loài Mentha citrata Ehrh. Tỷ lệ tinh dầu trong loài này là 0,2 đến 0,50%, gọi là Oleum Menthae viridis, thành phần chủ yếu trong tinh dầu này là chất cacvon C10H14O, tỷ lệ 45-60%, pinen và limonen, không chứa mentola ít dùng làm thuốc, chủ yếu dùng trong hương liệu.
Tại Việt Nam, chúng tôi cất từ loài húng dũi Mentha crispa L. được thứ tinh dầu có chứa 50- 60% cacvon như tinh dầu lưu lan hương (Đỗ Tất Lợi, 1970).
Làm đẹp da với lá bạc hà
Cách làm siro bạc hà cực uống đã khát
Công thức làm kem bạc hà
Tác dụng chữa bệnh của cây bạc hà
Tự chế tinh dầu bạc hà thơm mát tại nhà
Mặc đẹp với xanh bạc hà dịu mát suốt hè
(ST)