Thể nghiệm cao trào tình dục đối với phụ nữ
Ngay lập tức hãy dạy trẻ những điều này để tránh bị xâm hại tình dục
Các vị học giả đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu tình dục phụ nữ đã ba lần làm cho thế giới phải xao động, phải tạo ra sự thay đổi cơ bản về quan điểm tình dục, đó là Xicơ Môngđơ Floid, Anfrít Xi Kin và các đồng sự của họ, đó là cặp vợ chồng Matstơ và Jônxơn. Ảnh hưởng to lớn của họ đối với chúng ta, nhiều người vẫn chưa nhận thức được, cống hiến của họ làm thay đổi hẳn cách nhìn của chúng ta và công việc của chúng ta, thậm chí ở một mức độ nào đó, thay đổi cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều phát hiện cũng như kết luật của họ lại trái ngược nhau, khiến cho chúng ta cảm thấy khó xử. Ví dụ Floid nói với chúng ta rằng, phản ứng tình dục của phụ nữ chỉ xoay quanh âm đạo, không nên nhắt đến vấn đề tạo hứng thú nhờ kích thích vào âm vật. Nhưng Xin Kin cùng đồng sự, vợ chồng Matstơ và Jônxơn trong thời cận đại lại muốn chúng ta tin rằng cao trào tình dục của phụ nữ có liên quan mật thiết đến âm vật, hơn nữa âm vật là trung tâm nhậy cảm để khơi gợi hứng thú tình dục ở phụ nữ.
Trong thế kỷ thứ 20, khimà trong lịch sử phương Tây, vấn đề tình dục được coi là bộ môn nghiên cứu khoa học hợp pháp, cũng chính là lúc những nhà khoa học hàng đầu có nhiều cống hiến nhất cho bộ môn này lại mâu thuẫn gay gắt. Vậy cuộc phân tranh giữa họ đã xảy ra như thế nào để đạt được một cách nhìn biện chứng thống nhất giữa các mặt đối lập đó? Dường như những chuyện đó quá ư trừu tượng và không mấy ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét cảnh ngộ khó xử của bạn Joan nhé. Có thể coi Joan là một mẫu phụ nữ tiêu biểu lớn lên trong thập kỷ 40 – 50 trong số hàng trăm triệu phụ nữ khác. Joan kỷ niệm sinh nhật lần thứ 21 của mình trong cảnh khói lửa nổi loạn của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, cô hẹn hò với nhiều chàng trai, trong đó người có sức cuốn hút mạnh nhất đối với cô là một hạm trưởng hải quân trên chiến hạm Đại tây dương. Trước khi tàu rời bến vào ngày cuối tuần, cô đã hiến dâng cho chàng trinh tiết của mình. Sau đó, cuộc tình được nối tiếp bằng những cánh thư, ở lần nghỉ phép thứ hai, hai người tổ chức lễ cưới ở Annapolise. Họ có với nhau hai đứa con, đứa lớn sinh ra khi chàng đang phục vụ trên tàu, đứa thứ hai sinh ra khi hai người đang sống trong một biệt thự ở Oasingtơn sau khi chiến tranh đã kết thúc. Họ ở cùng với một cặp vợ chồng khác cũng lấy nhau trong hoàn cảnh tương tự. Tuy nhiên, cảnh ngộ của Joan thật đáng thương vì chàng sĩ quan hải quân đầy sức hấp dẫn đó thực ra lại là một kẻ máu mê cờ bạc, không hề chịu trách nhiệm trước cuộc sống gia đình. Vì không chuẩn bị sẵn về mặt tư tưởng để đối phó với hoàn cảnh bất trắc, nên Joan phải nhờ các bác sĩ tâm lý giúp đỡ. Qua sáu năm cố gắng tháo gỡ, Joan chỉ đạt được hai kết quả, một là đòi li dị, hai là cô tin rằng chức năng sinh dục của mình không hoàn thiện. Vì rằng ngoại trừ lần trao thân vào ngày nghỉ cuối tuần đầu tiên, thì tất cả những cuộc “yêu” sau đó, cô chưa bao giờ đạt được cao trào. Cô luôn bị chồng chế nhạo vì chuyện này, nhưng bác sĩ tâm lý càng làm cho sự việc thêm rối ren vì cho rằng: sở dĩ Joan không đạt được cao trào là vì ức chế về mặt tâm lý phát dục sinh lý. Sự ức chế này được biểu thị bằng một phương thức khác, cho dù cô học được cách đạt đến cao trào nhờ thủ dâm, nhưng cô cho rằng nếu nhờ chồng áp dụng phương thức sơ khai đó để làm cho cô thỏa mãn là một sai lầm. Chồng cô cũng như bác sĩ tâm lý làm cho cô càng sợ sệt lo lắng hơn, trong vong ba mươi năm sau đó, cô không đủ dũng khí tìm đến khoái cảm với bất kỳ một người đàn ông nào. Nhưng cuối cùng, vì bị trầm uất ở mức độ nhẹ, nên cô phải tìm đến một bác sĩ tình dục khác để tư vấn. Vì đinh ninh tin rằng chức năng sinh dục của mình không hoàn thiện, nên trong quá nửa đời người, cô đã phủ nhận khát khao tình dục và cuộc sống tình dục.
Rất nhiều phụ nữ giống như Joan đã tìm đến các bác sĩ phân tích tâm lý theo học phái Floid, cũng có hàng trăm triệu phụ nữ chịu ảnh hưởng của những người theo môn phái Floid, nhưng họ không hề ý thức được điều này. Vì rằng tư tưởng của vị bác sĩ thành Vơnigơ này giốgn như dòng suối nhỏ thấm sâu vào tất cả các tầng lớp văn hóa trong xã hội mà những khái niệm của nó đã trở thành những từ ngữ quá quen thuộc với tất cả mọi người. Ở bất kỳ tầng lớp xã hội nào, hoặc bất kỳ lúc nào, ta cũng có thể nâm vật những lời răn dạy luân lý đại loại như: “Có lẽ do vô ý thức, cô ta đã khép chặt cánh cửa đó lại, vì cô ta có lòng tự trọng quá cao”. “Tình yêu thương đối vớ mẹ và và tình yêu trai gái là một đề tài vĩnh hằng, ở đâu còn tồn tại tình yêu đối với mẹ thì ở đấy có tinh yêu”. “Cẩn thận kẻo lộ hết bản năng của mình ra”. Bây giờ chúng ta hãy đến thăm Milani, hoàn cảnh của cô trái hẳn với Joan. Khi cô tìm đến thành phố Phenix thuộc bang Alisanna để nhờ giúp đỡ tư vấn, thì sự việc diễn ra về mặt thời gian muộn hơn Joan 20 năm, tức là vào những năm 60, khi mà vấn đề tình dục đã trở thành một đề tài sôi động. Lúc đó, nhóm nhạc Jazz gồm bốn người với những bài hát được mọi người tán dương, ví dụ như “Luxi tay cầm hạt xoàn ở trên trời cao”. Luxi là một dòng họ phổ biên của phụ nữ, hồi đó có chủ trương sau khi lấy chồng, phụ nữ vẫn giữ nguyên họ của mình và tuổi trẻ mong muốn được sống để yêu nhau không cần có chiến tranh. Cũng chính vào thời gian này, Mastơ và Jônxơn đang viết những tài liệu công bố các kết quả trực tiếp mang tính chất cách mạng về vấn đề tình dục qua nghiên cứu thực nghiệm. Bạn có thể tưởng tượng được họ đã rất xa thời đại Vischtoria và họ dường như đề cập đến mọi vấn đề có liên quan đến hoạt động tình dục của con người. Tuy nhiên, người ta vẫn xếp tình dục vào chương mục hành vi tội phạm và khác thường trong quan điểm trừu tượng về tâm lý học và xã hội học.
Milani sinh sống tại một khu dân cư thuộc vùng rừng sam đỏ của bang Califocnia. Khi đó cô có ý định tìm cách rời bỏ cuộc sống trên lục địa thì trước đó, cô đã nếm trải cảnh làm nghề bán thân nuôi miệng và sống chung chạ với nhiều người. Còn bây giờ cô đang chìm đắm trong một mối tình và sẽ tổ chức lễ cưới với người mà cô đã chung sống 6 tháng. Cô kể với nhân viên tư vấn rằng: Thực ra chuyện này có chỗ không công bằng vì trong đời sống tình dục, hình như cô có điều gì trục trặc, cô không thích anh ta sờ và hôn vào bộ phận sinh dục, điều đó làm cho cô mất hứng. Cô không thích mút dương vật, thậm chí lúc “yêu” cũng không muốn dương vật của chạng chạm vào âm vật của cô. Cô thích kiểu đưa từ đằng sau và hoạt động thật mạnh. Phải chăng như vậy là không bình thường. Với cách làm khác lạ kỳ quặc đó, cô rất nhanh chóng đạt được cao trào.
Tự cô cho rằng mình không bình thường, vì không thích kích thích vào âm vật, còn Joan thì thấy không yên tâm khi làm điều đó. Nếu như không xảy ra xung đột giữa những quan điểm phổ biến hồi đó, thì hai người phụ nữ này sẽ còn phải lo sợ đến bao giờ. Cách đây 30 năm, dường như mọi người đều mang quan điểm mâu thuẫn và rối ren như vậy. Để tìm hiểu sự hình thành của hai xu hướng phân cực hóa có vẻ lạ lùng đó, chúng ta hãy xem xét cuộc tranh luận giữa hai phái Floid và các nhà nghiên cứu tình dục, đồng thời nhân thể xem xét người ta đã ủng hộ cuộc tranh luận đó như thế nào.
Trước đây hàng trăm năm, người ta không chấp nhận việc thảo luận công khai về thú vui tình dục và hoạt động tình dục, hề nhà khoa học nào muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề này đều bị mọi người nghi ngờ. Và các nhà khoa học đó cũng rất lo cho thanh danh của mình. Cho đến nay, thiên kiến này dường như vẫn còn tồn tại trong chúng ta. Một đặc điểm trong thời cực thịnh của Vischtoria đúng như một học giả đã miêu tả: “đó là thời suy thoái của tình dục”. Cũng vào thời Vischtoria đã xuất hiện nhiều tác phẩm sắc tình rất siêu việt, trong đó mô tả người phụ nữ là những kẻ rất khát khao niềm vui xác thịt, còn Rốt và Akdon thì lại phát biểu quan điểm của tầng lớp thống trị, cho rằng muốn duy trì hạnh phúc xã hội thì phải gạt bỏ mọi quan điểm về cảm hứng tình dục của phụ nữ, cho rằng đó là một sự phỉ báng xấu xa. Theo cách đánh giá, thì người phụ nữ vào thời đại Vischtoria đã được tập trung trình bày trong một cuốn sách xuất bản vào những năm 40 của thế kỷ 19. Người ta cho rằng hình tượng người mẹ hiền vợ đảm phải là:
“Chỗ đứng của người đàn bà trong gia đình chính là hết lòng chăm sóc người ốm, nuôi nấng con trẻ, bảo ban bọn trẻ học những kiến thức mới mẻ và tươi cười chúc cho những người bạn sắp sửa đi xa mà không nhìn thấy nước mắt trong cảnh chia ly”.
“Khi “yêu” thì người phụ nữ không được biểu hiện lòng ham muốn thái quá, mà phải tỏ ra mềm yếu nhu mì”. Nữ hoàng Vischtoria nhiệt liệt ủng hộ quan điểm này và còn muốn phụ nữ không trở thành những nhà chuyên môn, nhất là ngành y, mà chỉ muốn phụ nữ đảm đang vai trò nội trợ trong gia đình. Trong các vở ca kịch của Gilbớt và Saliven, tập trung xây dựng nhân vật người phụ nữ lúc về già rơi vào cảnh ngộ bi thảm không có sự chăm sóc của người đàn ông, mất hết địa vị xã hội và nguồn thu nhập kinh tế. Còn nhà tâm lý học thần kinh người Đức cũng là người đồng nghiệp của Freud là Risat W Krafut Aipin, tác giả nghiên cứu bệnh lý học tình dục nổi tiếng, lại cho rằng bản thân sinh hoạt tình dục cũng là một thứ bệnh hoạn đáng ghét. Ông đã viết về phụ nữ như sau: “Nếu như người phụ nữ phát dục bình thường và nhận thức được một nền giáo dục tốt đẹp, thì người phụ nữ đó đòi hỏi về tình dục ở mức độ rất thấp, nếu không phải như vậy, thì cả xã hội này đã biến thành lầu xanh cả rồi, và hôn nhân gia đình sẽ không còn tồn tại nữa. Có thể nói chắc chắn rằng loại đàn ông một mực xa lánh phụ nữ, và loại đàn bà một lòng bám theo đàn ông đều là những người không bình thường”.
Trong một bối cảnh như vậy, không một ai được khuyến khích đi sâu tìm hiểu bản năng sinh dục của đàn ông, càng không ai dám nghiên cứu tình dục phụ nữ, thành công của Freud cũng chính là ở khía cạnh này. Ông sinh năm 1856, tức là vào thời điểm 16 năm sau đám cưới của nữ hoàng Vischtoria và người yêu là Anbeth, nơi sinh là một vùng thuộc Tiệp Khắc ngày nay. Khi ông lên 4 tuổi, cả nhà dọn đến thành Viên. Tại trung tâm văn hóa to lớn đó, ông đã tiếp nhận được một nền giáo dục trọn vẹn. Để nuôi sống vợ con, ông đành gác lại sự nghiệp nghiên cứu trong phòng thực nghiệm, và mở một phòng khám chữa tư nhân về khoa bệnh lý học thần kinh. Đúng như lời kể lại lúc ông 80 tuổi: “Tôi đã phát hiện thấy rất nhiều sự thật quan trọng về đời sống tâm sinh lý và những rung động bản năng vô thức”, và trên cơ sở những phát hiện đó, ông đã xây dựng một bộ môn khoa học mới, đó là khoa phân tích tâm lý. Ông coi một phần trong bộ môn phân tích tâm lý là một phương pháp chữa các triệu chứng về thần kinh tinh thần, vì một chút may mắn đó, ông đã phải trả một giá rất đắt. Vì người ta không tin vào những phát minh của ông hoặc cho rằng lý thuyết đó chẳng có ý nghĩa gì. Ông đã gặp phải những trở lực to lớn và trước sau không hề thay đổi. Những phát hiện qua nghiên cứu của Freud khiến cho cả thế giới phương Tây bị chấn động. Kết quả là nhiều môn phái học thuật lúc đầu hoan nghênh ông là nhà phát minh, sau đó lại quay ra phản đối công kích ông cái “tội” mà ông mắc phải, chính là dám cả gan thách thức với cả một hệ thống khái niệm sinh vật vật lý đang thịnh hành hồi đó, và ông cho rằng tình dục là một yếu tố ảnh hưởng đến rất nhiều phạm vi hoạt động của con người. Ông ví bộ óc con người như dãy san hô ngầm dưới biển băng giá. Vì phần lớn chìm dưới đáy nước cho nên không ai có thể nhìn thấy. Đầu não của con người thì phần bị chìm lấp là phần phi lý tính và vô ý thức, phần nhìn thấy có thể ví như đỉnh núi nhô cao lên phía trên, đó là tiềm thức và ý thức. Ông tin rằng phần vô thức chiếm địa vị chủ đạo trong đầu óc con người, trong đó có vấn đề tình dục. Trong đời sống con người thì phần vô thức thậm chí còn quan trọng hơn cả phần lý tính, mặc dầu con người muốn nghĩ hoàn toàn ngược lại.
Freud hướng dẫn cho các thầy thuốn phương pháp điều trị mới, đó là chăm chú lắng nâm vật những điều liên tưởng rất tự nhiên của người bệnh, nâm vật kể về những giấc mơ của người bệnh, nâm vật tình cảm của họ nhằm giúp đỡ họ, chăm chú lắng nâm vật bệnh nhân trình bày để tìm ra mối quan hệ về cảnh ngộ từ thuở ấu thơ đến thời gian gần đây. Ông mách bảo cho chúng ta biết hoạt động tình dục ở tuổi thiếu nhi và trả lời hộ chúng ta câu nói “Tuổi thơ của một người quyết định tương lai của người đó”. Ngoài những cống hiến quan trọng như trên đã trình bày, ông còn chỉ ra cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều vấn đề liên quan đến bản tính cũng như bản năng tình dục của con người. Tuy không phải ai cũng ủng hộ mọi lý thuyết của ông, nhưng mọi người đều nhất trí đánh giá lý luận của ông về vấn đề tình yêu bị ức chế là một cống hiến to lớn. Nói một cách ngắn gọn, người đã kích thích những dục vọng ban đầu của đứa bé không kể là bé trai hay bé gái là người mẹ, và mãi mãi về sau này, người mẹ đã trở thành hình mẫu của đối tượng yêu đương. Khi một bé trai bắt đầu thấy thích thú về cơ quan sinh dục, thì bé muốn thay thế cha để gợi cảm mẹ bé, tuy nhiên bé biết rằng cha to lớn và khỏe hơn nhiều, bé không thể giành chiến thắng, hơn nữa bé cũng rất cần tình yêu của bố. Nói chung các bà mẹ đều có ý thức ngăn chặn hoạt động thủ dâm của con, nếu không nâm vật lời thì mẹ sẽ dọa để bé không được tạo thành thói quen xấu đó.Nếu bé trai vô tình nhìn thấy bộ phận sinh dục nữ thì bé sẽ tưởng tượng, để trừng phạt, người mẹ dọa sẽ cắt chim của bé, từ đó trong đầu bé bắt đầu hình thành nỗi sợ hãi bị thiến. Theo quan điểm của Freud thì đó chính là căn nguyên của triệu chứng thần kinh giống như nỗi sợ hãi kiên trì quyền lợi của mình (nhằm tránh hình phạt đáng sợ kia) hoặc sợ đối thủ của bé, tức là người bảo vệ đầy quyền uy (chính là người cha, vì rằng cách phòng thủ tốt nhất là chủ động tiến công). Kết hợp giữa hai nỗi sợ hãi là sợ cha và sợ mẹ thiến mất chim, làm cho đứa trẻ chỉ còn một cách là nương tựa hẳn vào mẹ. Tâm lý này về sau có thể trở thành hiện tượng né tránh đàn bà hoặc thích sống độc thân, hoặc đồng tính luyến ái. Quan điểm đó ẩn náu trong sự vô thức của bé trai, cho đến khi bé bước vào tuổi dậy thì để trở thành một chàng trai và người đàn ông thực thụ thì đôi lúc bị những sự việc trong cuộc đời đánh thức dậy, gây ảnh hưởng đến hoạt động tình dục.
Theo quan niệm của Freud, sự phát triển của bé gái khác với bé trai, vì ngay từ đầu bé gái đã biết là không có chim, nên bé không hề sợ bị thiến mất chim. Bé cũng rất ganh tị với bé trai tuy bé không phải lo nghĩ về khả năng bị mất chim.Trong tâm hồn bé hình thành nỗi âm vậtn tức với chim của bé trai, thế là bé tìm cách gây sự với bé trai. Nếu như tâm trạng này tồn tại lâu dài thì rất có khả năng sau này bé cũng sẽ trở thành người đồng tính luyến ái. Cũng có thể bé tìm mọi cách bù đắp vào chỗ thiếu hụt của mình mà không phát triển theo đường hướng mà Freud đã dự đoán. Quan niệm thường thấy ở người phụ nữ, đó là bị động phục tùng hoặc dựa dẫm. Một vấn đề khác thường xuất hiện ở bé gái là oán hận bà mẹ đã không phú cho bé một cơ thể cường tráng, mà chỉ là phận gái chân yếu tay mềm, theo quan điểm của Freud, đó là nguyên nhân tình cảm quyến luyến của bé gái đối với cha, và bé luôn tỏ ra muốn tranh giành cha ra khỏi tình yêu của mẹ. Tuy nhiên những biểu hiện tình cảm này khi nào cũng ở tình trạng bị ức chế, vì mọi người luôn có xu hướng muốn vùi sâu chôn chặt nó trong lòng, luôn luôn ngăn chặn nó trở lại trong ý thức. Quan điểm của môn phái Freud là tìm cách thanh minh cho Freud, bởi có rất nhiếu người chối bỏ quan điểm của ông, cho rằng nó có vẻ kì quặc và đáng ghét, cũng phân biệt rõ sự cự tuyệt là do vô ý thức hoặc do bản thân quan điểm thiếu tính chân thực, từ đó châm ngòi cho những cuộc tranh cãi hết sức phức tạp.
Trên nền tảng đạo đức đức trọng nam khinh nữ, Freud tiếp tục phát triển thành học thuyết về đặc tính tình dục phụ nữ, mà nhiều năm về sau, khía cạnh văn hóa của học thuyết này đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cô Joan. Ông cho rằng âm vật cũng trồi ra như bộ phận sinh dục nam hoặc cho rằng âm vật chính là dạng dương vật phát dục không đầy đủ, vì âm vật dễ sờ thấy hơn âm đạo, nên khi đùa nghịch, con gái sẽ phát hiện ra âm vật trước tiên. Freud cho rằng khi bé gái trưởng thành dần dần thành người phụ nữ, họ sẽ lãng quên trò đùa nghịch với âm vật như hồi thơ bé, mà chuyển dịch khoái cảm sang âm đạo (vì âm đạo là bộ phận cảm nhận, mà người phụ nữ lúc này đã đủ sức cảm nhận), về sau này quan điểm này trở thành cái gọi là “lý luận về sự chuyển đổi từ âm vật sang âm đạo”.
Rẩ nhiều lý thuyết của Freud đến nay được chấp nhận như một học thuyết chính xác, có đủ lý lẽ để tôn vinh ông là một học giả tầm cỡ đầy tính sáng tạo về lĩnh vực tình dục. Nếu đứng trên đôi vai vĩ đại của ông để nhìn về tương lai thì rất dễ đưa ra lời phê phán đối với học thuyết của ông, nhưng đó không phải là ý nguyện của chúng ta. Tuy nhiên, cho dù thừa nhận Freud trong thực tế đã có công lao đóng góp rất lớn, nhưng ông vẫn phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, những sai lầm đó là do hạn chế về phương pháp nghiên cứu cũng như trình độ hiểu biết có hạn gây nên. Một sự thực hiển nhiên là tầm ảnh hưởng của những phát hiện về mặt tâm lý xã hội và nhân loại học vẫn tồn tại mãi về sau này trong những người theo môn phái Freud.
Những người theo học thuyết Freud sau này nhiều khi quên mất rằng sự hạn chế hiểu biết về tình dục phụ nữ của bản thân Freud hết sức rõ ràng, ông còn bày tỏ niềm hy vọng các nhà chuyên gia phân tích tâm lý phụ nữ trong tương lai có thể làm sáng tỏ vấn đề này. Ông nói: “Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về tình dục phụ nữ, thì bạn cần tiến hành tổng kết các thể nghiệm của mình hoặc đi học hỏi các nhà thơ, nếu không bạn chỉ còn cách kiên nhẫn chờ đợi những tin tức khoa học mang ý nghĩa sâu sắc và chuẩn xác hơn”. Cũng như chúng ta, Freud chịu ảnh hưởng bởi sự vô ý thức của mình, một phần trong đó có nguyên nhân từ phía lịch sử và hoàn cảnh gia đình riêng của ông, một phần khác có nguyên nhân từ trào lưu văn hóa gia trưởng thời ông sinh ra và lớn lên. Hồi ấy chỉ cho phép bàn luận về sinh hoạt tình dục của đàn ông mà rất ít đề cập đến hứng thú tình dục của phụ nữ.
Có thể nói ở một chừng mực nào đó, cách khai thác tài liệu khoa học của Freud cũng là căn nguyên lý luận cách mạng cũng như sai sót của ông. Nguyên tắc phân tích tâm lý của ông là dựa trên kinh nghiệm cá nhân và lâm sàng, tức là ông không những căn cứ vào kết quả tìm hiểu quan sát mà còn căn cứ vào những suy tưởng của mình. Quan điểm của ông là, nếu không có ai đó cũng quan sát giống như ông, thì cũng không có ai đánh giá luận điểm của ông, cho đến nay, nhiều người theo học phái Freud vẫn kiên trì theo quan điểm này. Freud đưa ra kết luận sau khi nghiên cứu rộng rãi đối với một số ít người bệnh mà những người bệnh đó tỏ ra có hứng thú đối với phương pháp chữa bệnh mới mẻ của ông. Không thể nói rằng khả năng tiêu phí của ông có thể tiêu biểu cho mọi người trong xã hội hồi bấy giờ, càng không thể đại diện cho cả nhân loại. Ngược lại, nhà nhân loại học Mácgơ Rít Mide đã dày công nghiên cứu thói quen “yêu” của dân thường thuộc nhiều tầng lớp xã hội, và đã tổng kết cho chúng ta bài học quý báu, đó là mỗi nền văn hóa tạo ra những phương thức sinh hoạt tình dục khác nhau, nếu ai đó cho rằng chỉ có cách của mình là duy nhất đúng thì đó là cách nhìn hạn hẹp.
Nhưng Freud và những người theo môn phái của ông lại gần như không xem xét vấn đề xã hội, mà bị chi phối bởi tư tưởng nam quyền của thời đại Víchtoria.Tuy thế, ngay từ đầu, việc khởi xướng của họ đã thu hút được nhiều phụ nữ có tài năng và thành tựu nổi bật, có cống hiến to lớn hưởng ứng, nhưng trong số phụ nữ thời đó, chỉ có một người dám đứng lên thách thức với quyền uy, còn những người khác thì tìm cách hòa nhập những thể nghiệm tình dục của bệnh nhân phụ nữ với hình mẫu do Freud đưa ra.
Người phụ nữ dũng cảm khác thường đó là nữ tiến sĩ y học Caron Hốpny. Ngay từ năm 1924, cô đã dám công kích những ý tưởng của Freud, cho dù bản thân Freud cũng đã thừa nhận rằng hiểu biết của ông về tình dục phụ nữ còn rất hạn chế, nhưng ông không thể chịu đựng nổi những quan điểm khác thường của Hốpny và tuyên bố “Nếu bản thân nhà nữ phân tích tâm lý cũng không tự mình nhận thức đầy đủ về khát vọng thể hiện qua âm vật, thì bà ta cũng không thể coi trọng đúng mức nhân tố đó ở các nữ bệnh nhân của mình”.
Động cơ nào đã thôi thúc Freud phát biểu như thế? Ngay từ giữa thập kỉ XX, Hốpny đã bắt tay nghiên cứu tâm lý học phụ nữ và tiến hành tranh luận với Freud trên một số quan điểm. Khác với Freud, bà thừa nhận ảnh hưởng của nền văn hóa, chính do ảnh hưởng văn hóa mà bắt buộc người phụ nữ phải chiều theo sở thích của đàn ông, cho rằng điều đó phản ánh chân thật bản chất người phụ nữ, bà đánh giá phụ nữ có ưu thế hơn hẳn đàn ông về mặt sinh lý chứng tỏ về khả năng làm mẹ, điều này khiến cho đàn ông phải âm vậtn tức. Bà cho rằng về mặt cấu trúc bộ phận sinh dục nữ hồi thơ trẻ thì âm đạo và âm vật đều có tầm quan trọng như nhau. Bà đã tổng kết qua bản luận văn công bố vào năm 1926 như sau: “Mong muốn đầu tiên của tôi là chỉ rõ nguồn gốc của sai lầm có thể là do giới tính của người quan sát. Thông qua công việc này, có thể đi xa hơn một bước tìm ra một tiêu chuẩn và quan điểm chung vượt qua giới hạn chủ quan của phái nam hay phái nữ”.
Với tư cách không phải là nạn nhân Do Thái, Hốpny đã rời bỏ nước Đức của Hítle để đến nước Mỹ. Sau khi tiếp xúc với nhà văn hóa nhân loại học Rugơ Benikcoter, Macgarét Mide và bác sĩ tâm thần Harít Stak Saliven, thì quan điểm nhìn nhận sự vật dựa trên bối cảnh văn hóa càng được củng cố thêm. Hốpny bắt đầu coi tinh thần chính là sản phẩm được sinh ra dưới tác dụng tương hỗ giữa nhân tố sinh vật và nhân tố xã hội. Những việc làm mang tính sáng tạo của Mide đã hỗ trợ rất nhiều cho quan điểm coi trọng văn hóa và không tin tưởng vào học thuyết giải phẫu quyết định số phận. Hốpny rất quen thuộc đối với bộ môn tâm lý học nước Mỹ. Bà rất coi trọng tác dụng của học tập vì nó đã giúp bà phân tích quan sát được sự khác biệt giữa các nền văn hóa. Kết luận của Mide là cao trào tình dục là một loại phản ứng đạt được qua quá trình học tập rèn luyện, một nền văn hóa cụ thể nào đó sẽ gây tác dụng phát huy hoặc cản trở những người phụ nữ chịu ảnh hưởng nền văn hóa đó về khả năng đạt cao trào tình dục.Ví dụ người Monda Comor thuộc một bộ lạc ở Tân Ghinea tin rằng phụ nữ có cao trào tình dục, nhưng người Araphaxo ở ngay gần đó lại không tin như vậy. Cho nên phần lớn phụ nữ người Monda Comor đều đạt được cao trào tình dục, ngược lại phần lớn phụ nữ Araphaxo chẳng hề cảm thấy cao trào, như vậy khả năng đạt đến cao trào bao gồm phản ứng của nền văn hóa vào trong sinh hoạt tình dục. Nếu người phụ nữ muốn phát huy khả năng sẵn có này thì trước hết phải tự mình tìm hiểu trạng thái cơ thể khi có cảm hứng tình dục, chủ động tiếp nhận sự kích thích đủ liều lượng. Chỉ có trong một xã hội mà con người được truyền thụ những cách làm có hiệu lực, thì phụ nữ mới biết biết cách đạt được cao trào tình dục (Luận điểm này hỗ trợ rất đắc lực cho những thông tin mới nhất mà cuốn sách này đưa ra về vấn đề kích thích vào các khu nhậy cảm).
Cho đến thập kỉ 50, khi nhà tiến sĩ triết học kiêm nhà sinh vật học Anphơrét Kinxi trong bối cảnh văn hóa của thời đại chúng ta dùng phương pháp đo định lượng để nghiên cứu thói quen sinh hoạt tình dục của nam và nữ, thì chúng ta mới được biết hoạt động tình dục lại có sự khác biệt to lớn đến như vậy, ngay cả tỏng nền văn hóa đương đại, điều này cũng không hề thay đổi. Một trong những thành tựu nghiên cứu của Kinxi trở thành sự thách thức đối với học thuyết Freud về quá trình chuyển đổi từ âm vật sang âm đạo. Thời đó có hàng triệu phụ nữ đã thể nghiệm được khoái cảm từ âm vật, nhưng họ không dám đưa ra bàn luận công khai.
Có thể nói, nếu không có sự xuất hiện của phương pháp đo định lượng, thì không đạt được bước tiến bộ của khoa học. Nhằm tránh thiên kiến trong quan sát khoa học, thì cần tiến hành đo với rất nhiều người chấp nhận thí nghiệm. Trong đó thậm chí bao gồm cả bộ môn khoa học về tình dục mà chúng ta khá quen thuộc. Kinxi không những vận dụng phương pháp đo định lượng, mà còn vận dụng một cách có hiệu quả bộ môn thống kê học của những người làm công việc nhân loại học. Trong quá trình nghiên cứu, trước đây ông cũng đã từng vận dụng rất thành công và chính xác khoa thống kê học, và cũng chưa biết dàn dựng các thí nghiệm trên cơ thể người. Sở dĩ ông phạm phải những sai sót nghiêm trọng chính là vì không biết vận dụng những phương pháp này để nghiệm chứng luận điểm của mình.
Ví dụ, đã từng có một thời gian, Freud đinh ninh rằng nếu dùng bao cao su để “yêu” thì sẽ thành nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh tâm thần, thế nhưng ông lại chưa hề nghiên cứu những đôi vợ chồng xẩy ra vấn đề tương tự, nhưng họ chưa hề sử dụng bao cao su, đúng như kết quả quan sát của nhà nghiên cứu lịch sử tình dục là Edwa Bretx cho rằng: “Thỉnh thoảng thống kê học cũng mắc sai lầm, còn những kẻ cố ý né tránh thống kê học thì thường xuyên mắc sai lầm”.
Kinxi phần lớn dựa vào kỹ thuật gợi chuyện được bố trí chu đáo từ trước đồng thời phát huy kỹ thuật đó lên một trình độ cao. Ông cũng huấn luyện cho nhân viên của mình biết cách phỏng vấn, biết vận dụng khéo léo hoàn cảnh của người được phỏng vấn để đạt được kết quả điều tra về vấn đề cần tìm hiểu. Có một người được phỏng vấn về sau kể lại rằng “Tôi và vợ tôi đều có cảm giác là đã chia tay với những nghệ sĩ điêu luyện. Sau này, chúng tôi xem lại bản ghi chép đều thống nhất nhận định, trước thái độ chân thành của họ (tức là Kinxi và các trợ lý) thì chúng tôi chỉ còn cách thổ lộ hết mọi ý nghĩa chân thực của mình, nếu như trong lời đáp của chúng tôi còn có điểm nào đó thiếu sót thì đó hoàn toàn do trí nhớ của chúng tôi không đầy đủ”.Đây là một công việc đầy khó khăn, nhưng Kinxi tự mình đảm đương lấy phần lớn nhiệm vụ. Cho đến trước khi mất, trong 17.000 ca bệnh được thăm hỏi, riêng ông hỏi 7.000 ca. Qua những tài liệu ghi chép nội dung các cuộc phỏng vấn, chúng ta đúc kết được rất nhiều điều có liên quan đến sinh hoạt tình dục của loài người, bộ tài liệu này phong phú hơn rất nhiều so với những người trước đó. Năm 1955, trước khi mất không lâu, trong một buổi báo cáo chuyên đề y học ở New York, với sự tham gia của giới y học trong đó có nhiều nhân vật có tiếng tăm, Kinxi đã báo cáo về sự khác nhau giữa nam và nữ trong sinh hoạt tình dục. Sau đó, người ta đã tranh cãi rất nhiều về độ tin cậy của các số liệu do Kinxi đưa ra, vì trong thực tế, những số liệu này xung đột rất mạnh với tư tưởng bảo thủ của nhiều người sống vào thời đại Víchtoria. Nhiều người thích số kiểu “yêu” vượt xa với một số kiểu truyền thống được xã hội công khai thừa nhận, ví dụ thủ dâm, đồng tính luyến ái, đồng tính luyến ái giữa đàn ông, kể cả thông dâm. Do đó khá nhiều người công kích tính chính xác và tính tiêu biểu của các số liệu do Kinxi nêu ra.
Tuy nhiên, cùng với năm tháng, người ta dần dần tiếp nhận ngày càng nhiều số liệu của Kinxi, cho dù với những số liệu đó không hẳn đã thích ứng với tất cả mọi trường hợp, nhưng với hoàn cảnh hồi đó, thì những số liệu này được coi là đáng tin cậy nhất trong các bảng thống kê mà người ta có. Vì những số liệu đó không hề nói quá sự thật, những số liệu đó không hề nói quá sự thật, những số liệu đó phơi bày rất nhiều hoạt động của con người mà trước đó người ta chỉ dám thầm thì nói nhỏ với nhau.
Giống như Freud và các bậc tiền bối vĩ đại khác, Kinxi cũng không tránh khỏi sai lầm, một trongnhững sai lầm đó xuất phát từ nguyện vọng của Kinxi muốn chứng minh vấn đề một cách thật khoa học và khách quan. Chính vấn đề này đã đưa ông vào tình huống khó xử trước mắt. Học viện Kinxi đã mở ra một hoạt động nghiên cứu chuyên đề đặc biệt, đó là trong bộ phận sinh dục nữ, chỗ nào là khu nhậy cảm nhất. Nhóm bác sĩ phụ khoa gồm ba nữ hai nam đã tiến hành đo kiểm với 800 phụ nữ, sờ mó 16 điểm trên cơ thể họ gồm âm vật, môi (môi lớn và môi nhỏ), âm đạo và cổ tử cung. Họ không trực tiếp sờ vào người được thí nghiệm vì họ sợ làm như vậy là thiếu khách quan, thiếu khoa học, họ dùng một dụng cụ giống như cái thìa, thật không may là những điểm nhạy cảm trong chiều sâu của âm đạo chỉ bị kích thích khi chịu một sức ép nào đó. Còn khi bị va chạm nhẹ thì không hề có phản ứng gì, điều này ngày nay chúng ta đều đã biết. Từ đó Kinxi và những người phụ tá đưa ra kết luận điểm nhậy cảm của người đàn bà là âm vật chứ không phải âm đạo.
Kinxi và các đồng nghiệp của ông đã thúc đẩy khoa học tiến bộ, cổ vũ rất lớn đối với Matstơ và Jônxơn để họ bước tiếp một bước dũng cảm cuối chặng đường, tức là quan sát các đặc tính của hoạt động tình dục trong phòng thực nghiệm, thu thập được những tài liệu đầu tiên và công bố kết quả. Khoa học không những đo kiểm những số liệu cụ thể mà còn đòi hỏi phải trực tiếp quan sát. Ví dụ Aristot tin rằng vật A nặng gấp 10 lần vật B thì tốc độ rơi của vật A phải nhanh gấp 10 lần tốc độ rơi của vật B. Tương truyền rằng, phải đến mấy thế kỷ sau, Galilê đứng trên tháp nghiêng Pisa đã làm lại thí nghiệm của Aristot với hai vật thể có trọng lượng như thế để chứng minh luận điểm của Aristot, nhưng kết quả là hai vật thể có trọng lượng khác nhau lại rơi chạm mặt đất cùng một lúc.
Sau khi Matstơ và Jônxơn báo cáo kết quả quan sát trực tiếp của họ về thủ dâm và “yêu”, chúng ta mới hiểu rõ được cơ thể con người đã xẩy ra điều gì khi kích thích “yêu”, để dễ hiểu, họ đã phân chia quá trình phản ứng tình dục ra bốn giai đoạn là: giai đoạn hưng phấn, giai đoạn cầm chừng, giai đoạn cao trào và giai đoạn thoái trào.
Trong giai đoạn hưng phấn thì biểu hiện đặc trưng ở phụ nữ về mặt phản ứng sinh lý là âm đạo nhờn ướt, biểu hiện ở nam giới là cương cứng dương vật, âm đạo nhờn ướt cũng giống như hiện tượng tụ máu cương cứng, nó sẽ gây ra tụ máu ở các tổ chức xung quanh. Một trong số các phản ứng khác ở giai đoạn này là, ở phần lớn phụ nữ và số ít đàn ông có hiện tượng núm vú sưng to hoặc cứng lên.
Trong giai đoạn cầm chừng (thực ra là tiếp tục phát triển giai đoạn hưng phấn) thì 1/3 phần ngoài âm đạo sưng căng làm cho đường kính miệng âm đạo thu nhỏ với mục đích giữ chặt dương vật, trong khi đó, tinh hoàn của nam nở to đồng thời ép sát vào vách đáy, âm vật co về phía sau cách xa miệng âm đạo rất khó sờ thấy, kể cả nam và nữ đều có hiện tượng căng thẳng cơ bắp.
Ở giai đoạn cao trào, theo cách gọi của Matstơ và Jônxơn thì 1/3 phần ngoài âm đạo phụ nữ cũng như các hệ cơ quanh quanh có hiện tượng co bóp có nhịp điệu, lúc bắt đầu thì nhịp co là 0.8 giây một lần, sau đó nhịp điệu thưa dần và cường độ co yếu dần. Theo sự quan sát của Matstơ và Jônxơn, khi đạt cao trào mạnh thì xẩy ra 8 – 12 lần co bóp, nếu cao trào yếu chỉ xẩy ra 3 – 5 lần co bóp. Khi xuất hiện lần co bóp đầu tiên chính là lúc bắt đầu cảm nhận cao trào. Tử cung cùng lúc cũng co bóp một cách nhẹ nhàng, phản ứng của nam giới đại thể cũng giống như vậy, cộng thêm một số yếu tố kích thích phức tạp hơn dẫn đến hiện tượng xuất tinh. Matstơ và Jônxơn miêu tả quá trình này ở nam giới khá tỉ mỉ. Bất kể là nam hay là nữ, khi bước vào giai đoạn cao trào thì biểu hiện toàn thân đều có thay đổi, ví dụ nhịp tim nhanh hơn, huyết áp tăng cao, hơi thở gấp gáp, cơ bắp căng thẳng, tiếp đó lại buông chùng, đôi khi có một phần hoặc phần lớn da dẻ đỏ lựng.
Vào giai đoạn thoái trào, hầu như các khí quan đều trở lại trạng thái trước khi bị kích thích, nếu chỉ đạt một lần cao trào thì giai đoạn thoái trào diễn ra ngắn nhất, nếu đạt nhiều lần cao trào thì giai đoạn thoái trào sẽ dài hơn. Nếu sau giai đoạn hưng phấn hoặc sau giai đoạn cầm chừng không đạt đến cao trào thì giai đoạn thoái trào sẽ diễn ra dài nhất.
Ở đây cũng vẫn nổi cộm lên vấn đề phương pháp nghiên cứu, những nhược điểm trong phương pháp nghiên cứu của Kinxi đã đưa đến một sai lầm. Chính sai lầm này đã để lại cho đời sau chúng ta một bài toán khó. Ở một chừng mực nào đó, thì Matstơ và Jônxơn đã dựa trên kết quả nghiên cứu của Kinxi mới đưa ra giả thuyết cho rằng khả năng đạt đến cao trào nhờ kích thích vào âm vật trở thành thước đo để đánh giá người phụ nữ có phản ứng tình dục bình thường hay không. Khả năng thông qua thủ dâm đạt đến cao trào cũng được chọn làm một trong những tiêu chuẩn để chọn lựa đối tượng nghiên cứu. Giờ đây chúng ta đã biết rõ, họ đã bỏ qua vấn đề phụ nữ có phản ứng khác nhau.
Phải chăng đây cũng là nguyên nhân khiến cho Matstơ và Jônxơn giữ vững quan điểm trong cuộc tranh luận khá dài về đề tài “chuyển hóa cao trào từ âm vật sang âm đạo”. Theo cách nhìn nhận của họ, cao trào tình dục của tất cả phụ nữ đều liên quan mật thiết với âm vật, hơn nữa, đứng về mặt sinh lý thì không thể tách biệt ra được. Họ tin chắc rằng, mọi thứ cảm nhận được khác nhau đều là do chủ quan. Vì mọi cao trào tình dục của phụ nữ đều liên quan đến vấn đề tiếp xúc của âm đạo và các bộ phận khác. Cũng chính là sự cọ xát giữa âm vật với tổ chức da bao quanh âm vật, nên sự cọ xát này khi “yêu” cũng hoàn toàn giống như khi thủ dâm.
Chúng ta vẫn nhớ rằng, Freud tin chắc có hai loại cao trào tình dục, một là cao trào do kích thích vào âm vật. Theo ông thì loại này mang tính chất đàn ông, nên chưa chắc chín muồi. Thứ hai là cao trào do cọ xát âm đạo, theo ông thì loại này hoàn toàn thuộc về nữ tính nên rất nhuần nhuyễn. Ông và những người ủng hộ ông đã nâng quan điểm này lên tầm cao cực đại để kết luận rằng người phụ nữ nào chỉ có phản ứng tình dục ở âm vật có nghĩalà họ mắc triệu chứng hờ hững với tình dục. Một bác sĩ phụ khoa khá danh tiếng thậm chí còn lớn tiếng khuyên bảo đàn ông hãy “yêu” thật sự với vợ, kẻo các bà ấy quá mải mê với cảm giác ở âm vật. Ở một phương diện khác, thành quả nghiên cứu của Matstơ và Jônxơn cũng tạo nên một thái cực, tiếp đó là rất nhiều bài viết ca ngợi các ưu điểm của âm vật. Nhiều tông phái trong phong trài phụ nữ lên tiếng mạnh mẽ trong các bài văn của mình. Chất vấn giới đàn ông ngòai chức năng sinh con tại sao phụ nữ lại phải chịu nhiều điều rắc rối trong vấn đề sinh hoạt tình dục? Bất kì chị em phụ nữ (hoặc nam giới) nào, khi đã tự mình thể nghiệm được một công năng nào thì họ liền nâng quan điểm chủ quan của mình lên thành một logic không thể nào phản bác được, vậy thì sẽ đối xử ra sao với những chị em tự mình thể nghiệm được hai loại công năng?
Theo châm ngôn của Freud, thì mọi vấn đề chỉ thực sự có ý nghĩa khi được đối chiếu vào kinh nghiệm bản thân và kết quả quan sát lâm sàng. Điều này hỗ trợ rất lớn cho những bản báo cáo gần đây của các nhà chuyên môn nghiên cứu phân tích về năng lượng sinh vật phụ nữ. Bộ môn phân tích năng lượng sinh vật do Alêchxăngđơ Luowen sáng lập chính là cơ sở của liệu pháp cơ thể của phái Freud mới, nó được một học trò của Freud là Wyliam. Laike xây dựng qua công tác lâm sàng. Bộ môn phân tích năng lượng sinh vật khác với liệu pháp tâm lý mà nhiều người tin dùng ở chỗ, đối tượng của nó không chỉ gồm ngôn ngữ mà còn bao gồm cả trạng thái hô hấp và cơ bắp. Người chấp nhận phương pháp điều trị này thì có thể ở tư thế nằm (một tư thế khiến người ta dễ liên tưởng đến hành động bậy bạ), hoặc ở tư thế ngồi (rất tiện cho việc trao đổi chuyện trò), hoặc ở tư thế đứng (tư thế này khiến cho người ta cảm thấy mình là con người trưởng thành, có tác dụng tăng thêm lòng tự tin). Mặc dù các nhà nghiên cứu tình dục thường hay sử dụng lần lượt các thuật ngữ như “đỉnh cao” (Climax), “cao trào” (orgasm), trong khi các nhà phân tích năng lượng sinh vật lại dùng chữ “đỉnh cao” vào trường hợp co bóp của hệ cơ xunh quanh bộ phận sinh dục, còn chữ “cao trào” thì dùng cho trường hợp miêu tả hệ cơ bắp toàn thân co thắt.
Năm 1975, trong cuộc hội nghị học thuật do viện Phân tích năng lượng sinh vật tổ chức, lần đầu tiên đại biểu phụ nữ tách ra khỏi cac đồng nghiệp nam, vì các đại biểu nữ cho rằng, khi họ với đàn ông thực hiện chữa trị cá nhân hoặc dưới sự giám sát, họ vẫn không thể xác định rõ được tình cảm của phụ nữ. Tuy trong cuộc họp đề xuất ra khá nhiều ý kiến, nhưng những kết luận được rút ra quá ư ít ỏi.
Tuy nhiên, chị em phụ nữ chưa bày tỏ được suy nghĩ và tâm sự của mình. Điểm này cũng rất dễ hiểu, cho dù ở vào những năm sau của thập kỉ 70. họ vẫn là những thành viên trong các tổ chức do nam giới phụ trách, có những sự ràng buộc vô hình quy định lời ăn tiếng nói của họ.
Nếu phụ nữ muốn công khai bày tỏ quan điểm của mình trước mọi người, có lẽ họ nên dùng hình thức thư riêng. Thế là Alice và Halốt Radátxơ liền phân phát một bản điều tra y học. Việc phân phát còn nhằm một mục đích thứ hai, là xem xét khả năng có thể tìm ra lý luận về năng lượng sinh vật hay không (vào khoảng năm 1977) và những niềm tin thực tế của phụ nữ mà nó đề cập tới, cũng như sự khác biệt bên ngoài giữa thực tiễn và kinh nghiệm, những việc này rất giống với công việc mà Carôn Hốpny cố gắng thực hiện từ thập kỉ 20. Bởi vì các bài viết hoặc lời phát biểu về đề tài phân tích năng lượng sinh vật đều do đàn ông chủ trì, dựa theo sự suy diễn của họ qua quan sát lâm sàng kết hợp với lý luận triết học, có vẻ như đã được chứng minh khách quan và được chị em phụ nữ đồng tình.
Bản điều tra nặc danh đã tạo cơ hội tốt cho các nhà chuyên gia phân tích năng lượng sinh vật xem xét lại những thể nghiệm bản thân và nghề nghiệp của mình, trên cơ sở đó đánh giá những điểm khác biệt về mặt lý luận. Trong số 198 phụ nữ được phát phiếu thì có 70% số người trả lời, điềm bất đồng về mặt lý luận có ý nghĩa nhất có liên quan đến tầm quan trọng của âm vật. Trong hội nghị không hề nhắc đến từ âm vật, có lẽ họ muốn để cho mọi người ngầm hiểu rằng họ đều thuộc lớp người đã trưởng thành, nên không thể thừa nhận âm vật còn có sức thu hút đối với họ nữa.
Theo quan điểm của Freud, chỉ có những người tự mình thể nghiệm phương pháp phân tích đồng thời tiến hành quan sát thì mới có thể đánh giá nhận xét một cách xác đáng lý luận của ông. Các nhà phân tích năng lượng sinh vật phụ nữ chính là lớp người đầu tiên thỏa mãn được tiêu chuẩn trưng cầu của Freud, ngoài ra họ còn đáp ứng một tiêu chuẩn khác của Freud, đó là sự phân tích của họ đã thu được thành công. Trong công trình nghiên cứu này, có đến trên 80% nữ bác sĩ cho biết, họ đã chữa trị về rẩt nhiều lĩnh vực quan trọng, nếu cho họ tham gia một kế hoạch đào tạo chính thức, sẽ làm tăng thêm niềm tin vào khả năng phân tích thành công cũng như tin vào sự đánh giá chủ quan là chính xác. Có đến 81% chị em thừa nhận khi “yêu” đạt đến cao trào và cũng có 87% chị em không tán thành quan điểm này. Họ nói “Đối với những người đàn bà đã trưởng thành khi “yêu” việc kích thích trực tiếp hoặc gián tiếp vào âm vật là không quan trọng”. Qua cuộc điều tra tương đối toàn diện này đã thu được một kết luận quan trọng thách thức với học thuyết về sự chuyển giao âm vật - âm đạo của Freud. Theo câu trả lời trong phiếu điều tra thì phụ nữ không hề vì quá yêu âm đạo mà bỏ vai trò của âm vật, mà là trong lúc cảm nhận sự kích thích ở âm vật thì kết hợp thêm phản ứng từ âm đạo.
Một điểm bất đồng nữa các báo cáo về nhiều lần đạt đến cao trào của phụ nữ, theo quan điểm của Luo Wen thì nhiều lần đạt đến cao trào khi “yêu” không phải thuộc về mặt thể nghiệm mà chỉ là sự phản ứng trên bề mặt bộ phận sinh dục. Tuy nhiên, đại đa số phụ nữ đều nhìn nhận đó thực sự là cao trào tình dục, bất chấp lý luận của các nhà chuyên môn.
Vậy chúng ta nên giải thích sự khác biệt có vẻ mâu thuẫn này ra sao? Trong số nữ bác sĩ ở đây, nhiều chị đã tự mình thể nghiệm cảm giác được gọi là cao trào âm đạo, nghĩa là lấy âm đạo làm trung tâm, nhưng cũng chính các chị ấy cho rằng âm vật cũng có vai trò hết sức quan trọng. Khi “yêu” mà được kích thích vào âm vật thì tạo ra nhiều khoái cảm, cao trào đạt được từ âm vật làm cho họ hết sức thỏa mãn, khi họ có khát vọng thì người bạn tình cần giúp họ đạt được cao trào này.
Các nữ bác sĩ tham gia nghiên cứu đều cho rằng cần phải ủng hộ quan điểm của Freud về cao trào âm đạo, đồng thời cũng ủng hộ quan điểm của phái nghiên cứu tình dục về vấn đề phụ nữ thèm khát được kích thích âm vật, trong khi Matstơ và Jônxơn chỉ tin vào cao trào ở âm vật mà thôi, điều này không được phần lớn chị em trả lời đáp án nghiệm chứng. Qua đây chúng ta thấy rằng hai quan điểm trên đây chỉ đáp ứng được những vấn đề đơn giản mà chưa đi sâu vào bản chất của sự việc.
Sau 3 năm tức là vào năm 1980, kết quả điều tra của vợ chồng Rađátxơ được giao cho Hội nghiên cứu khoa học tình dục nước Mỹ tại hội nghị đại biểu toàn quốc. Qua bản luận văn mang đầu đề là “Từ Freud cho đến Haitơ đều chỉ đúng một phần” họ đã chỉ rõ những chỗ sai lầm của hai người ấy, cũng tại hội nghị này, họ đã tìm hiểu công việc của Jon Bery và Befury Huipur. Khi đã tìm được một nguyên tắc chung thì người ta cảm thấy như mở ra một triển vọng đầy hứa hẹn, do mỗi người không được nói quá 5 phút nên Bery và Huipur thay nhau lên diễn đàn, họ cho rằng:
Khi khám cho tất cả các phụ nữ, họ đều phát hiện thấy một bộ phận, đó là một điểm nằm sâu trong âm đạo mà khi bị đè èp thì hết sức nhạy cảm. Họ đặt cho nó cái tên là điểm G, đó là chữ cái đầu tiên trong tên người bác sĩ đầu tiên đã mô tả về nó, đó là bác sĩ Graofubôcơ.
Với tất cả những người phụ nữ qua khám thử đều thấy có điểm này.
Khi được kích thích đúng mức thì điểm G bị tụ máu và đạt đến cao trào.
Khi đạt đến cao trào thì có nhiều chị em phóng dịch từ đường niệu đạo ra. Về thành phần hóa học, dịch này giống với tinh dịch do đàn ông phóng ra. Chỉ khác là không chứa tinh trùng.
Kết quả kích thích vào điểm G thông thường làm cho phụ nữ đạt đến nhiều cao trào.
Nói chung, đối với chị em phụ nữ, nếu dùng tư thế “yêu” truyền thống thì rất khó khăn gây kích thích vào điểm G. Nếu áp dụng tư thế khác thì hiệu quả tốt hơn.
Nhiều chị em do yêu cầu tránh thai nên sử dụng màng ngăn âm đạo, việc sẽ hạn chế mức độ kích thích vào điểm G
Phần lớn chị em cho rằng dịch được phóng ra khi đạt đến cao trào chính là nước tiểu, nên thấy rất xấu hổ, các ông chồng cũng chỉ nghĩ rằng đó là nước tiểu nên có vẻ xem thường họ, đó chính là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều chị em tìm cách ức chế cao trào.
Sức mạnh của cơ ở vùng khung chậu có quan hệ mật thiết đến khả năng đạt cao trào khi “yêu”.
Phụ nữ nen học cách rèn luyện nhằm tăng cường sức mạnh hệ cơ ở vùng xương chậu, hoặc cách buông lỏng nó khi quá căng thẳng.
Nếu đàn ông tăng cường sức mạnh cơ bắp vùng khung chậu thì họ cũng tạo được khả năng nhiều lần đạt cao trào, thậm chí có thể tách nó ra khỏi cao trào xuất tinh.
Bất luận là nam hay nữ đều có thể đạt được nhiều dạng cao trào khác nhau.
Riêng đối với phụ nữ thì có mấy loại như: cao trào hội âm được xuất phát từ âm vật, cao trào tử cung nhờ động tác “yêu”, và loại cao trào hỗn hợp từ hai khả năng trên. Còn đối với nam giới thì có hai loại, loại cao trào xuất phát từ dương vật và loại cao trào có nguồn gốc từ tuyến tiền liệt.
Trong số những người ngồi nâm vật báo cáo, có các đồng nghiệp của Kinxi, đó là tiến sĩ triết học Watơn Pomorou và Phó chủ nhiệm Hiệp hội tin tức và giáo dục tình dục Mỹ (SIECUS) – tiến sĩ Mary. Covdron cũng như nhiều vị tiền bối nổi tiếng trong lĩnh vực tình dục học loài người.
Tuy rằng đây không phải lần đầu tiên Bery và Huipur báo cáo về những tài liệu này, nhưng vẫn được coi là một cột mốc lịch sử trong lĩnh vực nghiên cứu về tình dục, không khí ở đây khác hẳn với cuộc họp lên án và tranh luận gay gắt trước đó. Năm 1957, trong Hiệp hội nghiên cứu khoa học tình dục nước Mỹ đã nổ ra một cuộc tranh luận giữa bác sĩ triết học Abott Alice và tiến sĩ y học Alêchxăngđơ Lêon. Trong khi Alice ca ngợi “cao trào âm đạo là huyền thoại” thì Lêon lại khẳng định “cao trào ở âm vật biểu hiện khả năng đạt đến cao trào sút kém ở phụ nữ”. Ở đại hội năm 1980 đã không còn tình trạng phân hóa ra hai cực như thế nữa. Trong cuộc hội nghị năm 1958, khi chiếu phim trực quan về tình dục, một phát kiến to lớn của Matstơ và Jônxơn đã tạo ra bầu không khí căng thẳng lo sợ, thì lần này cũng không lặp lại nữa, ấn tượng sâu sắc gieo vào lòng những người xem phim hồi đó có lẽ đã thuyết phục được mọi người tin rằng tất cả mọi cao trào đều có xuất xứ từ âm vật, điều này có vẻ phù hợp với bộ môn sinh lý người. Trong khi chiếu phim thì nhân viên luôn kiểm tra xem có người ngoài lọt vào để xem trộm nhằm thỏa tính tò mò về sắc tình hay không. Còn khi chiếu phim ủng hộ quan điểm của Bery và Huipur thì người ta không hề cảm thấy lo lắng gì cả.
Lần đầu tiên khi được biết về phát hiện của Bery và Huipur, các nhà chuyên gia về khoa học phụ nữ ở trường đại học Tomat Jecxon tại thành phố Philadenphia như tiến sĩ y học Máctin Weix Pôkơ đã viết thư nói rằng “Tôi đã bỏ ra một nửa số thời gian tỉnh táo để tiến hành quan sát, mổ xẻ, lắp ghép bộ phận sinh dục nữ. Thế mà xưa nay chưa hề phát hiện ra tuyến tiền liệt, do đó phụ nữ không thể có hiện tượng xuất tinh”. Tuy nhiên, sau khi xem phim và quan sát mấy tiếng đồng hồ người phụ nữ chấp nhận thí nghiệm, ông đã thay đổi ý kiến: “Trong tình trạng âm đạo và hội âm đều bình thường, niệu đạo cũng bình thường, không hề có hiện tượng nổi cục nổi cộm ở đâu hết, chị để cho chồng thò hai ngón tay vào trong âm đạo rồi lần sờ dọc theo niệu đạo, thì điều xảy ra khiến người ta rất ngạc nhiên, là ở vị trí đó bắt đầu tụ dồn máu và cuối cùng mọc lên một cục cứng hình quả trứng có đường kính 2 cm khác hẳn với các vùng xung quanh âm đạo. Sau đó chị làm một động tác nín hơi (như rặn đái) thì chỉ sau vài giây, từ trong niệu đạo phóng ra mấy mililit chất dịch thể màu sữa. Rõ ràng dịch thể đó không phải là nước tiểu. Trong thực tế, nếu đúng như miêu tả của hóa học, thì thành phần của dịch thể này giống như chất dịch ở tuyến tiền liệt… Hiện tượng này khiến cho tôi cảm thấy bối rối, tôi đã đi hỏi một số chuyên gia giải phẫu, và họ đều bảo rằng tôi bị điên. Thế nhưng người bệnh lại không nghĩ rằng tôi bị điên, mà họ xác nhận chính họ có hiện tượng phóng dịch như thế. Một số ít người biết rằng ở gần niệu đạo có khu nhậy cảm tình dục, và ai trong số họ về nhà tự mình thí nghiệm cũng đều tìm thấy điểm G. Đến nay tôi vẫn chưa giải thích được điều này, nhưng tôi có thể chứng minh được một sự thực hiển nhiên là ở phụ nữ có hiện tượng xuất tinh ở điểm G. Tôi cũng tin rằng vài năm sau, cac vị giáo sư ở học viện y học sẽ coi chuyện mãi đến năm 1980 giới y học mới chịu thừa nhận phụ nữ có hiện tượng xuất tinh ra làm câu chuyện vui để đàm tiếu”. Thế nhưng, vào năm 1982, rất nhiều người trong giới y học vẫn chưa hề biết đến quan điểm này. Phải chăng phải chờ đến mấy năm nữa thì các bác sĩ bình thường hoặc các chuyên gia về khoa phụ sản mới chịu tiếp nhận quan điểm này.
Nhằm giải thích cho các đồng nghiệp hiểu được ít nhiều về vấn đề này, năm 1981, Alice Radatx tiến hành phát phiếu điều tra đợt hai cho các nhà phân tích năng lượng sinh vật phụ nữ, đồng thời phát phiếu cho các đại biểu tham dự các cuộc hội thảo chuyên môn. Mọi người nhanh chóng hưởng ứng một cách thích thú, quang cảnh giống như bầu nghị viện mà không có vẻ như một cuộc trưng cầu khoa học. Và trong một cuộc họp của các điều tra viên khu vực nông thôn cho thấy kết quả là: 4 người nhất trí phụ nữ có xuất tinh, 4 người phản đối, 3 người không biết. Trong số 5 người cho rằng có khu vực nhậy cảm tình dục thì hai người cho rằng điểm đó là cửa âm đạo, một người cho rằng ở cổ tử cung, một người cho rằng ở phía sau âm đạo, một người khác cho rằng nó ở thành trước âm đạo. Tất cả các quan điểm khác nhau đó đều được những nhân viên công tác nam hay nữ phát biểu bằng chính thể nghiệm bản thân hoặc qua quan sát từ các cặp vợ chồng quen thân với họ, họ coi việc tìm hiểu về tình dục là một trong những nội dung công tác tư vấn của mình. Trong một cuộc họp của các nhân viên tư vấn về hôn nhân và gia đình mà thành phần chủ yếu là phụ nữ, kết quả bỏ phiếu điều tra cũng gây ra bất đồng ý kiến tương tự như thế.
Nhiều bạn bè và bệnh nhân của chúng tôi tỏ ra rất hứng thú về nguồn tin mới này, trong đó một số người đã có thể nghiệm bản thân.
Một chị phụ trách cơ cấu y học phi kinh doanh trạc khoảng 45 tuổi cho chúng tôi biết:
“Tôi đã biết từ lâu rằng phụ nữ có hiện tượng xuất tinh, vì chính tôi tự mình trải qua chuyện đó, nhưng trước đây tôi thấy xấu hổ, rồi tôi nghĩ đó là một hiện tượng tự nhiên, tôi cho rằng đó là một hiện tượng tự nhiên, tôi cho rằng dịch thể đó không phải là nước tiểu, so với các loại cao trào đạt được nhờ nguyên nhân khác thì cao trào khi phóng dịch thanh thoát trọn vẹn nhất, hơn nữa nó không những sâu sắc hơn các loại cao trào bình thường khác mà rất dễ lặp lại”.
Một cô 21 tuổi kể về mình như sau: “Đúng thế, trong đó có một điểm mà trung tâm của nó lệch về phía trước bên phải một chút”.
Vậy thì vì sao các nhà y học và tâm lý học lại không hề để ý đến vấn đề này? Vì sao điều thể nghiệm này đã trở nên quen thuộc mà họ lại chưa hề mang ra thảo luận? Tại sao các nhà giải phẫu lại không phát hiện ra điểm G? Điều này có vẻ như thật khó giải thích. Khi khám bệnh, các bác sĩ lâm sàng thường hay vừa sờ vừa hỏi “Chỗ này có đau không, chỗ kia có đau không?” “Thế này có dễ chịu hơn không?”. Còn khi giải phẫu các tổ chức đã chết thì không thể nào phát hiện điểm G được, nếu như các nhà giải phẫu không cố ý đi tìm điểm G. Tuy nhiên, cho đến nay đã tích lũy được khá nhiều tài liệu chứng tỏ rằng phụ nữ có hiện tượng phóng dịch. Ngay từ thời Aristốt đã quan sát được hiện tượng phóng dịch của đàn bà khi đạt đến cao trào. Năm 1950, Graofuboco đã phát biểu “Rất đáng chú ý một số phụ nữ khi đạt đến cao trào thì từ nội tuyến của niệu đạo có chất dịch tiết ra”. Vào năm 1978, J.Lenxo Savry và tiến sĩ triết học F.W.Beneck đã nhận định rằng một số phụ nữ xuất tinh, họ còn cho rằng dịch thể đó từ tuyến tiền liệt của phụ nữ, đó chính là một hệ thống tuyến và ống ở xung quanh niệu đạo. Cũng giống như tuyến tiền liệt của nam giới, nó được phát triển ngay từ trong tổ chức phôi thai.
Khác với những người chung quanh, Bery và Huipur không bỏ qua bản báo cáo này, do đó thành quả của họ có giá trị tiềm tàng to lớn đối với tất cả chúng ta. Vấn đề quyết định là chúng ta vận dụng những thành quả đó ra sao, đúng như tiến sĩ triết học Irđven Bâychơ đã viết trên tạp chí Nghiên cứu tình dục học như sau:
“Nếu tìm được chứng cứ khách quan cho thấy phụ nữ có hiện tượng xuất tinh thì nó sẽ bị lợi dụng vào hai lĩnh vực hoàn toàn trái ngược nhau, nó sẽ giúp cho những người luồn cúi trước quyền uy phủ nhận hiện thực, thậm chí phủ nhận cả thể nghiệm bản thân được giải thoát. Hoặc giả, nó sẽ gợi mở đối với những người cho rằng khi phụ nữ đạt đến cao trào mà chưa kèm theo hiện tượng xuất tinh thì cao trào đó bị coi là chưa hoàn mỹ. Ý tưởng này sẽ thôi thúc một số chị em tìm mọi cách để thúc đẩy việc xuất tinh xẩy ra, vì e rằng nếu không xuất tinh sẽ bị đánh giá là chức năng không hoàn thiện”.
Các đại biểu tham dự đại hội của hiệp hội nghiên cứu khoa học tình dục tỏ ra rất tâm đắc với phát hiện của Bery và Huipur. Đặc biệt là vợ chồng Radatxo rất sốt sắng với các dạng cao trào xuất xứ từ điểm G. Những thành quả này góp phần giải thích rõ quan điểm của các bác sĩ phân tích năng lượng sinh vật phụ nữ đã thể nghiệm cao trào tình dục và cho rằng âm vật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đó, đồng thời giải đáp thắc mắc của một số chị em về vấn đề nhiều lần cao trào.
Bery và Huipur cũng rất quan tâm đến công việc của Radatxo. Sau hội nghị không lâu, Befury viết thư cho Alice kể rằng: “Chúng ta đang đi cùng trên một con đường, con đường này sẽ đưa chúng ta đến cùng một đích, đặc biệt là vấn đề khái niệm về cao trào phụ nữ, có nghĩa là chúng ta bắt đầu hợp tác với nhau”.
Trong chương sau sẽ đi sâu trình bày bốn điểm mà Bery và Huipur lưu ý các nhà nghiên cứu tình dục học. Nói cho cùng thì đây cũng không phải là lý luận mới nhưng được bổ sung những nguồn tin mới, tuy những tin này đã được công bố nhưng bị người ta bỏ qua, cũng giống như khá nhiều phát hiện khoa học quan trọng khác trong lĩnh vực này đều bị chìm vào quên lãng. Bốn phát hiện mới đó là: Điểm G, phụ nữ phóng dịch, tầm quan trọng của tính đàn hồi hệ cơ khung chậu và tính liên tục trong phản ứng cao trào. Sự kết hợp hài hòa giữa thành quả của phái Freud và các phái nghiên cứu tình dục khac làm cho hệ thống lý luận trở nên hoàn chỉnh và dễ hiểu hơn. Như vậy coi như họ đã tháo gỡ được bế tắc để cung cấp cho chúng ta một lập luận mang tính tổng hợp nhằm chứng minh các thể nghiệm về cao trào âm đạo và cao trào âm vật.