Nấm móng tay là như thế nào? biểu hiện ra sao? phòng và điều trị nấm móng tay như thế nào?
Bệnh nấm móng tay.
Tôi năm nay 45 tuổi, công việc thường xuyên tiếp xúc với nước, khoảng 1 -
2 tháng nay móng tay cái bị sần sùi lên, có màu đen, không có cảm giác
đau, nhưng hơi ngứa. Tôi thường lấy củ hành (hành khô) nướng lên rồi đắp
vào móng tay 1 lát thì đỡ. Nhưng mấy hôm nay tôi lại thấy ngón trỏ có
triệu chứng giống ngón cái. B/s có thể cho tôi hỏi đó là bệnh gì? Xin
cảm ơn Bác sĩ! (Nguyễn Khánh Hồng)
Trả lời:
Theo như mô tả, có thể bạn bị nấm móng tay.
Nguyên
nhân: Do nhiều loại vi nấm gây ra, có thể kể hai nhóm chính là: Nấm sợi
tơ (Dermatophytes) và nấm hạt men (Candida). Người bị bệnh này, do tay
chân thường xuyên bị ướt tạo điều kiện cho vi nấm phát triển và gây
bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Bề mặt móng bị xù xì, phủ một lớp
vảy mịn như cám, có lằn sọc dọc hay ngang. Chỗ bị tổn thương có màu hơi
vàng, hay nâu đen. Bên dưới móng cũng có thể bị tổn thương và móng bị
tróc. Ít khi cả mười móng tay hoặc mười móng chân đều bị bệnh. Trên từng
móng, tổn thương tấn công từ bờ vào và không bị viêm quanh móng (nếu do
Dermatophytes) hoặc từ gốc móng đi ra và có viêm quanh móng (nếu do nấm
Candida).
Khi viêm quanh móng sẽ rất đau, sưng đỏ và có mủ.
Ðiều trị:
+
Thuốc bôi tại chỗ: Dùng một trong các thuốc bôi sau: kem hoặc pommade
Ketoconazol (Nizoral), Canesten, Trosyd, Exoderil, Naftin v.v...
Cách
bôi: Sau khi rửa và cạo sạch chỗ tổn thương móng, bôi thuốc lên bề mặt
móng và quanh móng, mỗi ngày 2-3 lần, ít nhất trong 3 tháng.
+
Thuốc uống: Có thể dùng: Griséofulvine (chỉ có tác dụng trên nấm sợi
tơ), Nizoral, Lamisil,... (có tác dụng trên cả hai loại nấm). Nhưng phải
có sự chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ.
Ðể phòng ngừa tái phát, nếu có thể nên thay đổi việc làm hoặc mang bao tay khi làm việc để tránh móng bị ướt.
Tóm
lại, nấm móng là một bệnh tuy không nguy hiểm nhưng làm mất vệ sinh,
thẩm mỹ và rất khó điều trị. Vì vậy cần phải điều trị sớm và đúng phương
pháp.
Theo chúng tôi, bạn cần đến khoa Da liễu, bệnh viện
tỉnh khám, các bác sĩ ở đó sẽ khám, cho làm xét nghiệm để xác định bạn
bị loại nấm gì ở móng tay rồi sẽ kê đơn thuốc cho bạn điều trị.
Nấm móng chân (tay) là căn bệnh khá phổ biến vào mùa hè. Bệnh do vi
khuẩn gây nên và có khả năng lây lan rất nhanh. Dưới đây là những điều
cần biết về căn bệnh nguy hiểm này.
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh nấm móng chân (tay) do nấm và vi khuẩn gây nên. Bệnh gây ra các
tổn thương ở vùng da có nhiều chất sừng. Bệnh đặc biệt hay xuất hiện ở
vùng móng chân, móng tay, đôi khi cả ở tóc. Bệnh do nấm và vi khuẩn gây
ra nên có khả năng lây lan rất nhanh.
Thời tiết nóng ẩm mùa hè là điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự
xuất hiện, sinh sôi và phát triển của bệnh. Có thể kể đến một số nguyên
nhân gây bệnh chủ yếu sau:
- Vệ sinh cơ thể không sạch sẽ, đặc biệt là vùng móng chân, móng tay.
- Thường xuyên có các chấn thương nhẹ ở vùng móng chân (tay)
- Dùng găng tay, tất và giày kín trong thời gian quá dài.
- Thường xuyên có các hoạt động ở nơi công cộng như: bể bơi, phòng tập thể thao…
- Gia đình có người bị mắc bệnh.
- Dùng chung đồ dùng cá nhân với người bị bệnh.
2. Biểu hiện của bệnh
Bệnh thể hiện rõ nhất ở sự biến đổi màu sắc cũng như cấu tạo của
vùng móng chân (tay). Khi bị nhiễm bệnh, móng chân (tay) thường xuất
hiện các khe nứt li ti. Ở vùng kẽ móng xuất hiện hiện tượng nhiễm trùng
da. Da có thể mẩn đỏ kèm theo là cảm giác ngứa ngáy và khó chịu. Móng có
màu vàng hoặc xám đục. Lớp tế bào sừng trên bề mặt móng trở nên dày
hơn, sờ vào có cảm giác hơi sần.
Khi bệnh trở nên nặng, móng có thể chuyển sang màu xanh xám hoặc
đen. Các lớp sừng giòn và bong dần, có mùi hôi và tanh đặc trưng.
4. Cách phòng ngừa
Những loại rửa và thuốc bôi dạng kem hoặc nước chỉ có tác dụng ngăn
chặn và ức chế quá trình sinh sản và phát triển của vi khuẩn chứ không
thể tiêu diệt hoàn toàn được chúng. Điều trị tận gốc căn bệnh này cần có
thời gian và sự kiên trì.
Ngoài phương pháp dùng thuốc bôi ngoài da, nên kết hợp với các loại
thuốc kháng sinh khác giúp ngăn ngừa viêm nhiễm ở những vùng móng mà
thuốc bôi không tới được.
Nếu thấy có những biểu hiện mắc bệnh như trên, hãy tìm đến ngay bác sỹ để có được phương pháp chữa trị thích hợp.
Ngoài ra, cũng cần ngăn ngừa và hạn chế nguồn lây lan bệnh bằng các cách như sau:
- Vệ sinh cơ thể hàng ngày. Luôn giữ tay, chân sạch sẽ.
- Không sử dụng găng tay, tất và giầy kín trong thời gian dài. Nên
sử dụng những đôi giày, dép thoáng khí. Găng tay, tất phải được làm từ
sợi thiên nhiên, có khả năng thấm hút mồ hôi.
- Lựa chọn những đôi giày vừa chân, tạo cảm giác thoải mái khi đi.
Tránh sử dụng những đôi giày, dép quá cao hoặc quá chật vì sẽ dễ gây các
tổn thương cho chân, đặc biệt là các ngón chân.
- Hạn chế hoạt động ở các nơi công cộng vì đó là nguồn lây lan bệnh.
- Tuyệt đối không dùng chung đồ dùng như: quần áo, dày dép với những người mắc bệnh.
- Khi thấy có các biểu hiện bị bệnh, cần tìm đến ngay bác sỹ.
Bệnh
nấm móng và một cách phân loại mới định
hướng điều trị nấm móng
A. Bệnh nấm móng
1. Định nghĩa:
Là bệnh mãn tính và
thường gây biến dạng móng.
Sự nhiễm nấmở móng thường không theo qui luật đồng dạng
hay đối xứng và thường được thấy bị nhiễm ở một hoặc hai móng.
Nguyên nhân gây
bệnh:
- Nấm dermatophyte.
- Nấm Candida.
- Nấm mốc
(Seopulariopsis, Hendersonula...)
2. Các biểu hiện trên lâm sàng:
2.1. Nhiễm ở phần bên
và phần xa dưới móng (DLSO: Distal and lateral subungual onychomycosis), là
dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi
cũng nhiễm thêm nấm mốc (mould) thứ phát.
2.2. Trắng trên bề mặt
móng (SWO: Supperficial white onychomycosis), là dạng đặc trưng của nhiễm
dermatophyte do Trichophyton mentagrophytes, thường không phổ biến.
2.3. Ở phần gốc dưới móng (PSO: Proximal subungual
onychomycosis). Xuất phát từ phần gần của móng và thường là thứ phát của viêm quanh
móng mãn do các chủng nấm men Candida.
2.4. Loạn dưỡng toàn móng (TDO: Total dystrophic
onychomycosis), là dạng sau cùng của loạn dưỡng móng khi toàn bộ móng bị tiêu
hủy do hậu quả của ba dạng nhiễm trên.
3. Các loại thuớc điều trị hiện nay:
3.1. Thuốc bôi tại chỗ: thường được sử dụng theo kinh
nghiệm (dạng kem, dung dịch, sơn):
- Nhóm azole (ketoconazole, clotrimazole, miconazole,
sulconazole, oxiconazole, econazole).
- Ciclopirox Olamine.
- Amorolfine (loceryl).
- Nhóm allylamine (natifine, terbinafine).
- Nhóm các acid (salicylic, undecylenic).
- Nhóm polyenes (nystatin).
Tuy nhiên, đa số những chế phẩm trên không có mấy hiệu quả
trên nấm móng, ngay cả khi sử dụng phối hợp với rút móng, do hạn chế tính thấm
của tá dược vào móng. Do đó, điều trị bằng đường uống hiện được lựa chọn nhiều
hơn.
3.2. Thuốc uống:
- Itraconazole:
·Liên
tục: 200mg/ngày, trong 6 – 12 tuần
·Điều
trị từng đợt: 400mg/ngày, trong tuần đầu/tháng trong vòng 2 – 3 tháng.
- Terbinafine: 250mg/ngày (6 – 12 tuần).
- Fluconazole: 150 – 400mg mỗi tuần, từ 6 – 12 tháng.
- Griseofulvin: 0,5 – 1g/ngày, (6 – 12 tháng).
B. Cách phân loại
mới định huớng điều trị nấm móng
1. Tác giả:
BS. Alexey Sergeev - Tổng Thư ký của Hội Vi nấm học - Học
viên Quốc gia Nga.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị:
2.1. Biểu hiện lâm sàng của tổn thương:
Bệnh nấm móng có thể có các biểu hiện rất khác nhau. Dạng
nhiễm lúc đầu thường nhẹ, ảnh hưởng ít đến nền móng, có thể điều trị tại chỗ dễ
dàng. Các dạng lan rộng hơn, thường đòi hỏi trị liệu thuốc uống mới cho hiệu
quả và duy trì được kết quả. Có vài trường hợp, đôi khi trị liệu đơn độc đường
uống cũng không đủ hiệu quả.
2.2. Độ rộng của tổn thương:
- Vị trí nhiễm nấm cách mầm móng (matrix) bao xa?
- Thời gian để tổn thương đi ra khỏi móng?
2.3. Mức độ dày sừng bên dưới móng:
- Thuốc bôi có đến được giường móng (nail bed) không?
- Thuốc kháng nấm uống có đến được bản móng(nail plate)
không?
2.4. Vị trí móng bị nấm:
Tốc độ phát triển của móng khác nhau cũng ảnh hưởng đến kết
quả điều trị. Các móng chân thường phát triển chậm hơn các móng tay. Móng tay
cái và chân cái phát triển chậm hơn móng các ngón còn lại. Sự phát triển của
móng chậm hơn sẽ đòi hỏi thời gian điều trị dài hơn.
2.5. Tuổi:
Tốc độ phát triển của móng giảm theo tuổi.
Phòng và điều trị nấm móng tay, chân
Môi trường
nóng, ẩm là môi trường thuận lợi để các loại nấm phát triển và gây bệnh.
Nấm móng tay, móng chân là bệnh thường điều trị và phòng bệnh ra sao?1. Nấm móng:
Là bệnh mãn tính và thường gây biến dạng móng. Sự nhiễm nấm ở móng
thường không theo qui luật đồng dạng hay đối xứng và thường được thấy bị
nhiễm ở một hoặc hai móng. Nấm móng là sự phá hủy móng tay, chân (nhưng
hiếm khi tất cả) do nhiễm nấm gây nên.
Móng chân hay bị hơn bởi vì mang giầy chật làm cho móng ẩm
ướt và đây là môi trường thuận lợi cho nấm phát triển. Ngược lại, ở
người làm nghề mà tay tiếp xúc thường xuyên với nước như bán nước giải
khát,công nhân hải sản, nội trợ …thì móng tay hay bị hơn.
Bệnh nấm móng thường khó điều trị, đòi hỏi thời gian điều
trị dài 12-18 tháng và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay dễ điều trị hơn
nấm móng chân. Các thuốc điều trị nấm móng có nhiều tác dụng phụ, vì vậy
phải được bác sĩ chuyên khoa da liễu khám, chỉ định và theo dõi điều
trị. Thậm chí khi đã điều trị hết nấm móng, bệnh vẫn có thể tái phát
ngay sau khi ngừng thuốc chống nấm toàn thân một thời gian ngắn. Do vậy
thuốc bôi chống nấm có thể dùng duy trì sau khi đã dùng thuốc chống nấm
toàn thân.
2. Nguyên nhân
- Nấm mốc (Seopulariopsis, Hendersonula...)
- Do nấm hạt men (Candida albicans): tổn thương là những biến dạng
trên bề mặt của móng, bề mặt trở nên sần sùi, gồ ghề mất đi vẽ trơn láng
bình thường, có thể có nhiều chất bẩn đóng phủ lên. Một đặc điểm quan
trọng là tổn thương từ phía trong mầm móng tiến ra ngoài bờ tự do và
quanh móng cũng bị sưng đỏ, có mủ, bóp rất đau.
- Do nấm sợi tơ (Dermatophytes): thương tổn trên bề mặt của móng cũng
giống như do nấm hạt men nhưng bắt đầu từ bờ tự do và tiến vào phía
trong mầm móng và thường là không có viêm quanh móng.
3. Cách lây truyền
Nấm móng thường xuất hiện trên những móng đã bị chấn thương
trước đó. Những chấn thương thường là: vi chấn thương ở móng, mang giầy
chật.
Có thể lây từ người này qua người khác bởi vì nấm có thể sống được
trong không khí ẩm, đất nên người đi chân đất dễ bị. Nhiễm nấm cũng có
thể xảy ra trong buồng tắm, bồn tắm, phòng thay đồ hoặc khi làm móng,
cắt móng chung với người bị nấm móng.
Nấm móng là một bệnh thường thấy ở những người làm việc
tiếp xúc với nước thường xuyên như: nội trợ, chùi rửa hồ bơi, phục vụ
phòng khách sạn, người làm nghề bán nước giải khát, rửa xe, chăn nuôi
,bán tôm cá... Những người ra mồ hôi nhiều khi làm việc hoặc chơi thể
thao. Người có tiền căn nấm tay chân, nấm bẹn, làm móng tay, móng chân,
người > 65 tuổi, Bệnh nội khoa, thiếu máu nuôi tay chân, tiểu
đường, suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS)
4. Các biểu hiện trên lâm sàng:
Nấm móng thường không có triệu chứng gì đặc biệt mà chủ
yếu là móng bị mất độ bóng, giòn và quá sâu. Chất móng có thể khô và
thậm chí xốp. Những mảnh vụn không đều của móng bị bệnh có thể vỡ. Ðể
chẩn đoán xác định cần kiểm tra dưới kính hiển vi để xem có những nhánh
sợi nấm và đám bào tử nấm không. Bệnh làm móng bị hư hủy xấu xí, có khi
nung mủ, đau ảnh hưởng đến năng suất làm việc. Một đặc điểm dễ nhận ra
bệnh là trên một bàn tay, chân tổn thương không luôn luôn xảy ra trên
tất cả các móng. Thường có các triệu chưng sau:
- Móng bị nhiễm nấm sẽ có các dấu hiệu sau:
-Móng màu nâu, vàng hoặc có những đốm trắng, có thể có màu đen
-Móng trở nên giòn, dễ gãy, dễ bong, lỗ chỗ
-Tăng sừng dưới móng
-Mùi hôi
-Móng dầy và mang giầy đau
-Khó chịu, gây khó khăn khi đi lại, làm việc
- Bề mặt móng bị xù xì, phủ một lớp vảy mịn như cám, có lằn sọc dọc hay ngang. Chỗ bị tổn thương có màu hơi vàng, hay nâu đen.
- Bên dưới móng cũng có thể bị tổn thương và móng bị tróc.
- ít khi cả mười móng tay hoặc mười móng chân đều bị bệnh. Trên từng
móng, tổn thương tấn công từ bờ vào và không bị viêm quanh móng (nếu do
Dermatophytes) hoặc từ gốc móng đi ra và có viêm quanh móng (nếu do nấm
Candida).
- Khi viêm quanh móng sẽ rất đau, sưng đỏ và có mủ
Nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng (DLSO: Distal and
lateral subungual onychomycosis), là dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng
móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi cũng nhiễm thêm nấm mốc
(mould) thứ phát.Trắng trên bề mặt móng (SWO: Supperficial white
onychomycosis), là dạng đặc trưng của nhiễm dermatophyte do Trichophyton
mentagrophytes, thường không phổ biến. Ở phần gốc dưới móng (PSO:
Proximal subungual onychomycosis). Xuất phát từ phần gần của móng và
thường là thứ phát của viêm quanh móng mãn do các chủng nấm men Candida.
Loạn dưỡng toàn móng (TDO: Total dystrophic onychomycosis), là dạng sau
cùng của loạn dưỡng móng khi toàn bộ móng bị tiêu hủy do hậu quả của ba
dạng nhiễm trên.
5. Thời gian điều trị
Thường phải kéo dài ít nhất từ 3- 6 tháng, có trường hợp đến 12
tháng, là thời gian cần để thay trọn vẹn móng mới. Nấm móng là một bệnh
tuy không nguy hiểm nhưng làm mất vệ sinh, thẩm mỹ và rất khó điều trị.
Vì vậy cần phải điều trị sớm và đúng phương pháp.
6. Dự phòng nhiễm nấm
- Giữ bàn tay, bàn chân luôn luôn khô ráo, sạch sẽ bằng cách đeo găng
tay cao su khi tiếp xúc với nước. Tránh ngâm tay chân trong thời gian
dài dưới nước. Sau khi làm việc trong môi trường nước, cần rửa sạch, lau
khô bàn tay, bàn chân ngay
- Không dùng khăn ướt, không dùng chung khăn với người khác.
- Thay tất, vớ mỗi ngày. Không nên mang tất, vớ từ ngày này qua ngày
khác. Nên chọn những đôi tất có chất liệu thoáng và dễ hút ẩm. Mồ hôi
bàn chân chính là điều kiện thuận lợi giúp cho các loại vi khuẩn và nấm
sinh sôi nảy nở.
- Luôn cắt tỉa móng tay,móng chân cẩn thận, đều đặn, theo dáng các
ngón tay-ngón chân, không nên để quá dài. Không nên dùng chung các dụng
cụ cắt tỉa móng tay-chân, hạn chế cắt, tỉa, sơn hay ngâm móng chân ở
tiệm.
-Thường xuyên rửa bàn tay, bàn chân cẩn thận và lau khô ngay sau khi rửa. Tránh tiếp xúc nhiều với các loại xà phòng, hóa chất.
- Điều trị càng sớm càng tốt.
- Nếu bệnh cứ kéo dài dai dẳng dù đã được điều trị thì nên thay đổi công việc khác nếu có điều kiện.
TRỊ NẤM MÓNG BẰNG THUỐC NAM.
Nấm
móng hay Chín mé là đầu móng tay, móng chân, bị sưng nhức, làm mủ khi bị vật
nhọn đâm vào, do cắt móng tay, móng chân bị trầy sướt hay chân tay bị ẩm uớc,
tiếp xúc nhiều với nước gây nhiễm trùng. Tác nhân gây bệnh nấm móng (chín mé)
là vi khuẩn tụ cầu vàng, đôi khi là vi khuẩn liên cầu làm cho sưng đỏ, da nóng,
làm mủ và đau nhức ở nơi đầu ngón tay hay ngón chân; ban đêm càng đau nhức hơn,
có khi gây mất ngủ, mệt mỏi, sốt, nổi hạch … => Đọc thêm.
Nếu để viêm
lâu, sẽ lan toả làm viêm cả ngón, có khi cả bàn tay, bàn chân. Bệnh nấm móng
(chín mé) rất đau nhức, nhưng nhân dân ta có kinh nghiệm điều trị bằng đắp Tỏi
hay đắp lá Màn màn ri, rất đơn giản và hiệu quả nhanh.
- Bài thuốc
1: Củ Tỏi …… 2 - 3 tép.
Giã
nhỏ, đắp vào ngón tay hay ngón chân, nơi bị nấm móng. Chừng vài phút lấy ra bỏ.
Đắp chừng vài lần thì lành, hết sưng, đau, làm mủ. (Chú ý: Không nên bó Tỏi lâu,
sẽ gây bỏng da, thịt).
- Bài thuốc 2: Cây Màn
màn ri ….. 2-3 đọt.
Giã nhỏ, đắp lên
vùng đau, vài lần thì khỏi.
TÁNH VỊ THUỐC NAM:
1/ CỦ TỎI: Còn gọi là Đại Toán (Allium Sativum L). Tỏi ở Phan Rang và
Tỏi ở Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) là thơm ngon nhất.
Củ tỏi có vị cay, tính ấm. Có tác dụng giải cảm cúm, giải độc, tiêu đờm,
lợi tiểu, hạ khí, trừ giun, thông khiếu.
Năm 1858, Louis Pasteur đã biết tác dụng diệt khuẩn của Tỏi.
Các nhà khoa học trên thế giới, qua nghiên cứu đã thấy trong Tỏi có chất
tổng hợp chứa chất Allyl Sulfur hửu cơ, có thể chận đứng sự phát triển của các
khối u ung thư, vì nó diệt được một số vi khuẩn có hại trong dạ dày làm chuyễn
đổi thức ăn thành nitrosamine, một trong những chất gây ung thư. Tỏi còn có tác
dụng phân giải những thành phần làm máu vón cục trong động mạch, một hiện tượng
phổ biến của người bị bệnh tim mạch. Tỏi còn làm giảm nồng độ cholestérol trong
máu, ngăn chặn sự xơ mỡ động mạch, phòng được bệnh tăng huyết áp. Tỏi rất giàu
Oestrogen thực vật, nên rất có ích cho phụ nữ mãn kinh, làm hạn chế những tác
động của hội chứng mãn kinh v.v… Tỏi còn có một ít Iot, tinh dầu và một chất
kháng sinh tự nhiên là allicin có tác dụng diệt khuẩn Staphyllococ, thương hàn,
phó thương hàn, tả, lỵ amíp, trực khuẩn gây bệnh bạch hầu, khuẩn thối… - Công
dụng: Tỏi làm gia vị và làm thuốc chữa lỵ amíp, tim mạch, mụn nhọt, sưng tấy,
áp xe, chín mé, chữa tăng huyết áp, viêm phế quản, ho gà, thấp khớp.
2/ MÀN MÀN RI:
Có 2 loại. Màn màn
hoa trắng (Gynandrosis pentaphylla Dc) và Màn màn hoa vàng (Cleome viscosa L).
Cây Màn màn
ri mọc khắp nơi trên nước ta. Có công dụng gần giống nhau, đều có tính kháng
khuẩn, ức chế sự phát triển của virus, diệt côn trùng, muối chua ăn; nhưng nhân
dân thường sử dụng loại Màn màn ri hoa vàng hơn. Màn Màn ri vị cay, ít độc, có
tác dụng làm hoạt huyết, ra mồ hôi, giảm đau, trừ thấp, thanh nhiệt.
- Công dụng: Dùng
lá tươi gĩa nát với ít muối, đắp vào vùng thái dương để chữa đau đầu; nhỏ nước
ép màn màn ri vào vào tai để chữa viêm tai giữa; đắp lá tươi chữa chín mé. Người
Khờ-Ho, ở Bình Thuận có bài thuốc dùng Màn màn ri chữa rắn cắn: Màn màn ri hoa
vàng tươi 50g, Củ cỏ cú tươi 50g, Hạt cải củ hay hạt cải cay 50g. Giã nát, cho
thêm ít nước cho uống, bả đắp lên vùng bị rắn cắn.
3/ BỆNH ÁN ĐIỂN HÌNH:
Ngày
7/8/2009, Anh Hoàng Phước, 43t, ở P.Hưng Long, TP Phan Thiết, là thuyền trưởng
tàu đánh cá. Đến nhờ tôi khám bệnh. Mười đầu ngón tay của Anh bị làm mủ, cả
vùng quanh móng và ở giữa đầu ngón tay, đau nhức vô cùng, nhất là khi bị vật gì
chạm vào thì đau điến hồn, đã trên 3 năm. Anh đã đi chữa ở bệnh viện da liễu
thành phố HCM và một số bác sĩ chuyên khoa, nhưng chưa bớt. Có người nói Anh bị
viêm tắc tỉnh mạch đầu chi. Tinh thần rất hoang mang. Tôi chẩn đoán bệnh viêm
quanh móng bội nhiễm.
PHÉP TRỊ:
Cho uống thuốc “tiêu độc” bên trong như : Hoàng liên, liên kiều, kim ngân hoa,
phòng phong, kinh giới, sâm đại hành…
- Bên ngoài cho ngâm 2
tay vào nước “Tỏi”. Cách làm: Lấy 2 củ tỏi, giã dập, cho vào 2 lít nước sôi, để
nguội, ngâm cả 2 tay vào khoảng 5-10 phút. Ngày ngâm 1-2 lần. Liên tục đến khi
hết mủ, vết thương khô, hết đau nhức thì thôi. Ngày 20/8/2009, bệnh nhân đến
khám lại, mười đầu ngón tay đều không còn mủ nữa, vết thương khô, hơi bị thâm
đen. Bệnh nhân cho biết các đầu chi không còn đau, cả khi bị vật dụng đụng vào
trong quá trình lao động. Anh đã đi biển trở lại từ mấy hôm nay. Gia đình rất
vui./.
(St)