Nguyên nhân chửa trứng và cách điều trị đúng hướng nhất. Ở nước ta tỷ lệ chửa trứng khá cao, chiếm khoảng 1/500 người có thai.
Mang thai là một việc hết sức Bình thường của mỗi người phụ nữ. Trải qua 9 tháng 10 ngày, thai nhi lớn dần lên và em bé sẽ ra đời trong niềm hạnh phúc của những ông bố, bà mẹ. Nhưng có những trường hợp, sự mang thai diễn ra không Bình thường và có thể gây nguy hiểm cho thai phụ, như: đa thai, chửa ngoài tử cung, chửa trứng...
Chửa trứng là một trong những hiện tượng mang thai bất thường, thường gặp ở các nước có nền kinh tế kém phát triển, người mẹ không được ăn uống đầy đủ dưỡng chất. Ở nước ta, tỷ lệ chửa trứng khá cao, chiếm khoảng 1/500 người có thai.
Vậy chửa trứng là gì?
Sau khi trứng đã được thụ tinh, thai và những phần phụ của thai (túi ối, gai rau…) phát triển không tương đồng với nhau như Bình thường, khiến cho gai rau bị thái hóa, sưng lên thành những túi chứa dịch dính vào nhau thành từng chùm (giống như chùm nho, chùm trứng ếch), nên được gọi là thai trứng.
Chửa trứng có hai loại:
- Chửa trứng hoàn toàn: Là loại chửa trứng không có tổ chức thai, các gai rau phình to, mạch máu lông rau biến mất, lớp tế bào nuôi tăng sinh mạnh.
- Chửa trứng không hoàn toàn (chửa trứng bán phần): có tổ chức thai hoặc một phần thai, màng ối, thai có thể còn sống hoặc đã chết, các gai rau phù nề.
Nguyên nhân dẫn đến thai trứng?
Chửa trứng là hiện tượng sản sinh quá mức của nhau thai (có người gọi là rau thai). Bình thường, nhau thai có nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai trong thời kỳ thai nghén.
Trong trường hợp chửa trứng, nhau thai phát triển thành khối không được kiểm soát. Đa số trường hợp không có bào thai, được gọi là "chửa trứng hoàn toàn", một số trường hợp có bào thai nhưng không sống được gọi là "chửa trứng bán phần".
Nguyên nhân của bệnh:
Hiện nay chưa biết rõ nguyên nhân. Người ta nghĩ đến những khả năng sau: sai sót ở trứng, sai sót quá trình thụ tinh, bất thường ở dạ con, thiếu các chất dinh dưỡng như đạm, axit folic, ca-rô-ten.
Do vậy, ăn uống đầy đủ các chất có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.
Các biểu hiện của chửa trứng và ung thư nhau thai:
- Chảy máu âm đạo,
- Ra dịch, các chất bất thường: các lông nhau hình quả nho,
- Đau bụng dưới,
- Nôn hoặc buồn nôn,
- Chảy dịch đầu vú bất thường,
- Bụng dưới to như có thai,
- Bụng không nhỏ lại sau khi sinh,
- Bệnh để muộn: khó thở, liệt, co giật.
Khi một phụ nữ có các biểu hiện trên nên đến khám tại cơ sở y tế để xác định. Khi đến cơ sở y tế, thầy thuốc sẽ khám, siêu âm, thử máu trong đó có xét nghiệm HCG, thử nước tiểu, nạo buồng dạ con sau khi loại trừ thai bình thường, chụp Xquang phổi (và có thể làm thêm các chụp chiếu khác).
Hiện nay, nguyên nhân gây ra thai trứng chưa được y học xác định rõ, chỉ mới đưa ra được một số yếu tố như:
- Tuổi tác: Phụ nữ ở độ tuổi dưới 20 và trên 40 có nguy cơ bị chửa trứng cao.
- Thiếu chất dinh dưỡng: thường xảy ra ở các nước kém phát triển, ở khu vực Châu Á, Châu Phi. Do điều kiện kinh tế khó khăn, người phụ nữ không được ăn uống đầy đủ, chế độ ăn ít protein, folic acid, carotene…
- Đã sinh đẻ nhiều lần.
- Có tiền sử thai nghén lần đầu không Bình thường.
Thai phụ bị ra máu âm đạo kéo dài, tử cung to quá mức so với tuổi thai
có thể là dấu hiệu của chửa trứng. (Ảnh minh họa)
Cho đến nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân chính gây ra chửa trứng. Tuy nhiên, có một số yếu tố đã được xác định là nguyên nhân tiềm ẩn gây chửa trứng:
Tuổi của mẹ:
Chửa trứng có thể gặp ở mọi lứa tuổi mang thai, tuy nhiên, với phụ nữ mang thai dưới 20 tuổi và trên 40 tuổi, nguy cơ bị chửa trứng sẽ cao hơn hẳn những phụ nữ khác.
Tiền sử thai nghén:
Thai phụ có tiền sử thai nghén lần đầu không bình thường, hoặc có khuyết tật về nhiễm sắc thể của trứng, bất thường ở tử cung…
Đẻ nhiều:
Những phụ nữ đã có thai nhiều lần cũng có nhiều nguy cơ bị chửa trứng.
Thiếu dinh dưỡng:
Chế độ khẩu phần dinh dưỡng không đầy đủ như thiếu hụt vitamin A, protein, axit folic, carotene cũng là nguyên nhân gây chửa trứng ở phụ nữ
Khi có thai, sản phụ nên đi khám thai định kỳ để phát hiện các bất thường nguy hiểm.
Những triệu chứng thường gặp
Người bị chửa trứng lúc đầu có những biểu hiện mang thai bình thường, như: tắt kinh, ốm nghén… Nhưng triệu chứng nghén rất nặng, Nôn nhiều, có thể bị phù, protein niệu. Thai phụ bị ra máu âm đạo kéo dài, tử cung to quá mức so với tuổi thai.
Để tránh nhầm lẫn với một số bệnh lý khác (như u xơ tử cung, chửa ngoài tử cung..), khi có dấu hiệu bất thường nào, thai phụ nên đến bệnh viện để thăm khám. Bác sĩ sẽ khám âm đạo, siêu âm hoặc xét nghiệm nước tiểu để xác định bệnh và đưa ra hướng điều trị.
Ban đầu, người bị chửa trứng cũng có biểu hiện mang thai bình thường. Sau đó, xuất hiện các triệu chứng sau:
Ra máu:
Ra máu (thường là màu nâu đen hoặc đỏ) thường xuất hiện ở tuần thứ 6 tới tuần thứ 16 của thai kỳ. Máu ra dai dẳng hoặc chảy máu ồ ạt dẫn đến thai phụ mệt mỏi, xanh xao, hay bị hoa mắt chóng mặt.
Nghén nặng:
Thai phụ nôn nhiều, ăn vào lại nôn; nôn ra mật xanh, mật vàng; người gầy. Thai phụ cũng có thể bị phù, huyết áp cao và protein niệu (tình trạng nhiễm độc thai nghén).
Tử cung to:
Qua siêu âm có thể tử cung thai phụ to hơn bình thường, không tương xứng với tuổi thai, mềm và đặc biệt thấy hình lỗ chỗ trong khối nhau như hình ảnh tuyết rơi. Siêu âm cũng không phát hiện âm vang thai trong tử cung và không thấy phôi thai, tim thai. Bụng thai phụ to nhanh. Có trường hợp thai mới 2-3 tháng mà bụng bầu đã to như 5-6 tháng.
Khám âm đạo:
Nếu bác sĩ tiến hành khám âm đạo và phần phụ có thể thấy nhân di căn âm đạo (kích thước bằng khoảng ngón tay), màu tím sẫm, dễ vỡ, gây chảy máu và có thể thấy nang hoàng tuyến mọng, dễ di động ở một trong 2 bên buồng trứng.
HCG tăng cao:
Xét nghiệm nước tiểu thấy nồng độ HCG tăng rất cao, trên 30.000 đơn vị.
Phân loại chửa trứng
Có 2 loại chửa trứng thường gặp là chửa trứng hoàn toàn và chửa trứng không hoàn toàn.
Chửa trứng hoàn toàn:
Đây là loại chửa trứng không có tổ chức thai với các gai nhau phình to, mạch máu lông nhau biến mất và lớp tế bào nuôi tăng sinh mạnh.
Chửa trứng không hoàn toàn:
Còn được gọi là chửa trứng bán phần. Khác với loại trên, chửa trứng không hoàn toàn có tổ chức thai hoặc một phần thai và màng ối. Thai có thể còn sống hoặc đã chết, các gai nhau phù nề.
Cách điều trị
Khi bị chửa trứng, cách điều trị thông thường là nong cổ tử cung để nạo, hút sạch thai trứng ra khỏi tử cung. Điều này cần được thực hiện sớm để tránh bị sảy hoặc phát triển thành ác tính. Sau đó, bệnh nhân vẫn được tiếp tục theo dõi và xét nghiệm nồng độ HCG (là loại hormon được sinh ra từ dạ con của người phụ nữ sau khi thụ thai) thường xuyên để xác định xem có biến chứng hay không.
Biến chứng
Chửa trứng thường có những biến chứng khá nguy hiểm, như băng huyết do trứng bị sảy, hoặc khi trứng đã ăn sâu vào cơ tử cung sẽ làm thủng lớp cơ đó và chảy máu vào ổ bụng, nếu không được cấp cứu kịp thời dễ dẫn đến tử vong.
Sau khi đã nạo trứng, vẫn có nhiều nguy cơ tái phát ở lần mang thai tiếp theo, hoặc xuất hiện nhân di căn. Có khoảng 15% thai trứng lành tính đã biến chứng thành khối u ác tính và có thể lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Cách phòng thai thai trứng
Vì đây là một căn bệnh sản khoa nguy hiểm, nhiều nguy cơ biến chứng, nên mỗi phụ nữ cần có những hiểu biết nhất định về nguyên nhân của nó để phòng tránh. Ăn uống đủ chất là rất quan trọng trong độ tuổi sinh đẻ. Bên cạnh đó, cần kế hoạch hóa gia đình, không sinh quá nhiều con và sinh gần nhau.
Với những người đã từng điều trị thai trứng, nên tuân thủ theo chỉ dẫn hậu phẫu của bác sĩ. Khi mang thai lần tiếp theo, hãy đến bệnh viện sớm để được chuẩn đoán và theo dõi xem có bị chửa trứng tái phát hay không.
Phương pháp điều trị:
Đối với chửa trứng, thầy thuốc sẽ nạo sạch "trứng" với người có nhu cầu sinh con hoặc cắt tử cung đối với người không có nhu cầu sinh đẻ nữa. Sau khi xử trí chửa trứng, người bệnh cần xét nghiệm máu, nước tiểu 2 tuần/lần cho đến khi lượng HCG trở về bình thường.
Tiếp theo sẽ thử nước tiểu 4 tuần/lần. Thời gian theo dõi 6 tháng. Ngoài ra trong các lần khám, thầy thuốc có thể siêu âm nếu thấy cần thiết.
Nếu bệnh trở thành chửa trứng xâm nhập hoặc ung thư nhau thai, thầy thuốc sẽ dùng các phương pháp chữa bệnh sau:
- Chữa bằng hoá chất: dùng thuốc để diệt ung thư.
- Chữa bằng phẫu thuật: ở một số trường hợp.
- Chữa bằng tia xạ: dùng tia phóng xạ để diệt ung thư, chỉ trong một số trường hợp.
Sau khi ra viện, bệnh nhân cần chú ý:
- Đi khám lại, thử máu, nước tiểu định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
- Với những người có nguyện vọng sinh con: Có biện pháp tránh thai ngay sau chữa bệnh; Có thai sau 1 năm từ ngày chữa bệnh, thử HCG vào tuần 6 và 10 của thai.
(st)