Sau khi quan hệ lần đầu bị ra máu - nguyên nhân và cách xử lý
Nguyên nhân béo mặt và cách ăn uống tập luyện giúp chị em luôn rạng ngời
Nguyên nhân và cách phòng chống bệnh máu trắng ở trẻ em
Nguyên nhân của bệnh nấm móng tay, chân và cách điều trị hiệu quả
Nguyên nhân của bệnh hạ đường huyết và cách phòng bệnh tốt nhất. Hạ đường huyết xảy ra khi lượng đường trong máu (glucose) giảm xuống mức quá thấp. Có nhiều lý do tại sao điều này có thể xảy ra, được phổ biến nhất tác dụng phụ của thuốc được sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường. Nhưng để hiểu được cách hạ đường huyết xảy ra, nó giúp để biết làm thế nào cơ thể bình thường quy định sản xuất đường trong máu, hấp thụ và lưu trữ.
Nguyên nhân
Quy định lượng đường trong máu
Trong quá trình tiêu hóa, cơ thể bị phá vỡ carbohydrate từ thực phẩm - chẳng hạn như bánh mì, gạo, mì, trái cây, rau và các sản phẩm sữa - thành phân tử đường khác nhau. Một trong những phân tử đường glucose, nguồn năng lượng chính cho cơ thể. Glucose được hấp thụ trực tiếp vào máu sau khi ăn, nhưng nó không thể nhập vào các tế bào của hầu hết các mô mà không cần sự giúp đỡ của insulin - một hormone tiết ra từ tuyến tụy.
Khi mức độ glucose trong máu tăng lên, nó tín hiệu tế bào nhất định (beta cells) trong tuyến tụy, nằm phía sau dạ dày, để giải phóng insulin. Insulin lần lượt mở ra các tế bào để glucose có thể nhập và cung cấp nhiên liệu tế bào cần phải hoạt động đúng. Bất cứ thêm glucose được lưu trữ trong gan và cơ bắp dưới dạng glycogen. Quá trình này làm giảm mức độ glucose trong máu và ngăn cản nó đạt đến mức độ nguy hiểm cao. Khi lượng đường trong máu trở về bình thường, thì sự tiết insulin từ tuyến tụy hằng định.
Nếu không ăn nhiều giờ và máu giảm lượng đường, một hormone từ tuyến tụy glucagon gọi là tín hiệu gan để phá vỡ lưu trữ glycogen và glucose phát hành trở lại vào máu. Điều này sẽ giúp lượng đường trong máu trong một phạm vi bình thường cho đến khi ăn một lần nữa.
Ngoài gan phá vỡ glycogen thành glucose, cơ thể cũng có khả năng sản xuất đường trong một quá trình gọi là gluconeogenesis. Quá trình này xảy ra chủ yếu trong gan, mà còn trong thận và sử dụng các chất khác nhau mà là tiền thân của glucose.
Có thể nguyên nhân có bệnh tiểu đường
Nếu bị tiểu đường, các tác dụng của insulin trên cơ thể giảm sút đáng kể, vì tuyến tụy không sản xuất đủ (bệnh tiểu đường tuyp1) hoặc bởi vì các tế bào kém đáp ứng với nó (bệnh tiểu đường tuyp 2). Kết quả là, đường có xu hướng tích tụ trong máu và có thể đạt mức độ nguy hiểm cao. Để sửa vấn đề này, có thể dùng insulin hoặc các thuốc khác được thiết kế để lượng đường trong máu thấp hơn.
Nếu mất quá nhiều insulin hơn nhiều so với lượng đường trong máu, nó có thể làm lượng đường trong máu giảm quá thấp, dẫn đến hạ đường huyết. Hạ đường huyết cũng có thể dẫn nếu sau khi uống thuốc tiểu đường, không ăn nhiều như bình thường (nuốt glucose ít hơn) hoặc tập luyện nhiều hơn so với bình thường. Để ngăn chặn điều này xảy ra, có thể bác sĩ sẽ làm việc để tìm ra liều tối ưu phù hợp với ăn uống và thói quen thường xuyên hoạt động.
Có thể nguyên nhân mà không có bệnh tiểu đường
Hạ đường huyết ở những người không có bệnh tiểu đường là ít phổ biến hơn. Nguyên nhân có thể bao gồm:
Thuốc. Lấy thuốc của người khác, vô tình uống thuốc tiểu đường là một nguyên nhân có thể có của hạ đường huyết. Các thuốc khác có thể gây hạ đường huyết, đặc biệt là ở trẻ em hoặc ở những người bị suy thận. Một ví dụ là quinin, được sử dụng để điều trị chuột rút chân, cũng như bệnh sốt rét.
Tiêu thụ quá nhiều rượu. Uống rượu nhiều mà không ăn có thể chặn gan phát hành glycogen được lưu trữ thành glucose vào máu, gây hạ đường huyết.
Một số bệnh quan trọng. Bệnh gan nặng, như viêm gan nặng, có thể gây hạ đường huyết. Các rối loạn về thận, có thể giữ cho cơ thể không thải thuốc đúng, có thể ảnh hưởng đến nồng độ đường do sự tích tụ của các loại thuốc. Dài hạn vì đói, vì có thể xảy ra trong rối loạn ăn uống chán ăn tâm thần, có thể dẫn đến sự suy giảm các chất cơ thể cần trong gluconeogenesis, gây hạ đường huyết.
Khối u. Một khối u hiếm của tuyến tụy (insulinoma) có thể gây ra dư thừa insulin, dẫn đến hạ đường huyết. Các khối u khác có thể có kết quả trong sản xuất quá mức các chất giống như insulin. Hoặc các khối u có thể tự sử dụng đường quá nhiều. Mở rộng của các tế bào beta của tuyến tụy sản xuất insulin (nesidioblastosis) có thể gây ra quá nhiều insulin, làm hạ đường huyết. Những người đã trải qua phẫu thuật dạ dày có nguy cơ của tình trạng này.
Nội tiết thiếu sót. Một số rối loạn của tuyến thượng thận và tuyến của tuyến yên có thể dẫn đến sự thiếu hụt các hormone quan trọng điều tiết sản xuất glucose. Trẻ em có các rối loạn này là dễ bị hạ đường huyết hơn là người lớn.
Hạ đường huyết sau bữa ăn
Hầu hết hạ đường huyết xảy ra khi chưa ăn (khi đang ở trong tình trạng ăn chay), nhưng đó không phải luôn luôn như vậy. Đôi khi, hạ đường huyết xảy ra sau bữa ăn vì cơ thể sản xuất insulin nhiều hơn là cần thiết. Đây là loại hạ đường huyết, được gọi là phản ứng hoặc sau ăn hạ đường huyết, là điển hình ở những người đã có phẫu thuật dạ dày.
Triệu chứng của hạ đường huyết
Hạ đường huyết thể nhẹ: chân tay bủn rủn, vã mồ hôi, chóng mặt, tim đập nhanh, đánh trống ngực, lờ đờ, buồn ngủ, đường huyết thường từ 3,3 – 3,6 mmol/L. Nếu được uống nước đường hay ăn thức ăn ngọt thì sẽ khỏi.
Hạ đường huyết thể vừa: có trường hợp rối loạn tinh thần, có cơn thao cuồng, sầu uất, ủ rũ, mất phương hướng, đôi khi xuất hiện cơn cơ giật như động kinh, nhìn đôi. Có người bị liệt nửa người, nhưng thường chỉ vài phút, vài giờ là khỏi hẳn. Có trường hợp buồn nôn, đôi khi đau bụng, ngất. Đường huyết thường từ 2,8- 3,3 mmol/L.
Hạ đường huyết thể nặng: hôn mê xảy ra đột ngột, hôn mê sâu, co cơ hàm hoặc cơn co giật toàn thân, có khi liệt nửa người. Thân nhiệt giảm. Có trường hợp tự nhiên tỉnh dần trong vài giờ hay vài ngày. Nếu tiêm glucose thì khỏi nhanh hơn. Có trường hợp tử vong vì trụy tim mạch trong các cơn nặng. Đường huyết thường dưới 2,8 mmol/L
Triệu chứng hạ đường huyết
Nguyên nhân của hạ đường huyết
Các nguyên nhân hạ đường huyết biết được:
Ăn không đủ, thiếu bữa ăn phụ, bỏ bữa ăn, ăn quá ít, ăn không đúng bữa, nhịn đói lâu ngày, uống nhiều rượu, bia, đặc biệt lúc đang đói, bị lả do đói, người ốm nặng, lâu ngày không ăn được, trong các bệnh ung thư, bệnh đường ruột, bệnh gan, bệnh nội tiết…
Bệnh tuyến nội tiết:
U tuyến tụy lành tính hay ác tính làm tăng bài tiết ra insulin. Những bệnh nhân bị u tụy tạng có triệu chứng rất nặng, thường xảy ra cơn hôn mê, co giật và thường kèm theo chứng béo phì. Ngoài ra khi giảm chức năng thùy trước tuyến yên, hoặc tuyến thượng thận cũng có thể hạ đường huyết.
Hội chứng Dumping (sau cắt dạ dày):
Hoạt động, làm việc quá sức như tập, hoặc thi điền kinh, bơi lội, leo núi, đua xe đạp đường trường…), lao động nặng hoặc sau khi cho con bú.
Người đang sử dụng thuốc điều trị tiểu đường:
Dùng các thuốc uống hoặc tiêm để điều trị bệnh tiểu đường với liều lượng thuốc và chế độ ăn chưa phù hợp.
Ngoài ra còn nhiều trường hợp hạ đường huyết không biết được nguyên nhân (chiếm khoảng 70%), các trường hợp này có triệu chứng thường nhẹ.
Xử trí hạ đường huyết
Đối với những bệnh nhân khi thấy có dấu hiệu hạ đường huyết phải nhanh chóng ăn nhẹ như cháo loãng, súp hoặc uống một cốc nước đường (200ml), để người bệnh nằm nghỉ ngơi yên tĩnh, khi người bệnh tỉnh táo trở lại nên được ăn đầy đủ chất dinh dưỡng.
Ở bệnh nhân tiểu đường, khi được điều trị bằng insulin, phải tiêm thuốc vào trước bữa ăn 1-2 giờ. Nếu sau khi tiêm insulin thấy người khó chịu, bủn rủn thì ăn một ít đường.
Trường hợp nghi ngờ có khối u tụy cần làm siêu âm, chụp cắt lớp vi tính ổ bụng, siêu âm nội soi… để phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời.
Nếu hạ đường huyết nặng trong tình trạng hôn mê: cần tiêm tĩnh mạch chậm dung dịch glucose ưu trương 20 hoặc 30% hoặc truyền tĩnh mạch dung dịch glucose5 hoặc 10%. Nếu có thể tiêm dưới da 1 mg Glucagon
Thực phẩm giúp xử lý khi bị hạ đường huyết
Làm gì khi bị hạ đường huyết?
Đối với những bệnh nhân khi thấy có dấu hiệu hạ đường huyết phải nhanh chóng ăn nhẹ như cháo loãng, súp hoặc uống một cốc nước đường (200ml), để người bệnh nằm nghỉ ngơi yên tĩnh, khi người bệnh tỉnh táo trở lại nên được ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Đối với người bệnh đái tháo đường bị hạ đường huyết nên sử dụng dung dịch ngọt ưu trương 30% ngay từ khi có nghi ngờ hạ đường huyết, đặc biệt trước một rối loạn thần kinh cấp xảy ra trên bệnh nhân đang được điều trị bằng insulin hoặc sulfamid.
Khi tiêm cần tiêm rất chậm, liều sử dụng không quá 60ml, sau đó thay bằng truyền nhỏ giọt dung dịch ngọt 10-15%. Tiêm glucose tĩnh mạch đồng thời cũng là test chẩn đoán có giá trị lớn, các dấu hiệu hôn mê sẽ mất ngay tức thì. Cũng có thể tiêm glucagon (tiêm bắp hay tĩnh mạch cũng có tác dụng tương tự). Nếu được điều trị sớm, bệnh nhân có thể tự khỏi không để lại di chứng gì, tuy nhiên sau cơn hạ đường huyết có giảm đi một phần. Tiến triển của bệnh phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng bệnh nhân có được điều trị kịp thời hay không.
Để phòng bệnh, mọi người không nên nhịn đói, hoặc để cơ thể bị đói quá lâu, không nên nhịn ăn mà hoạt động thể lực quá mức. Nhất thiết không được bỏ bữa sáng, đặc biệt là người già, trẻ em, những người có bệnh mạn tính, cơ thể yếu. Đối với bệnh nhân đái tháo đường không nên quá nóng vội mà dùng quá liều insulin mà phải tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Những bệnh nhân này cũng cần có chế độ tập luyện thể lực điều độ, nên mang sẵn những thứ như kẹo gừng để khi cảm thấy có dấu hiệu hạ đường huyết cần sử dụng ngay. Tuy nhiên vấn đề quan trọng ở người đái tháo đường là phải luôn kiểm soát đường huyết chặt chẽ, tránh những biến chứng đáng tiếc xảy ra.
Biểu hiện
Bệnh đường máu thấp là chỉ nồng độ đường máu quá thấp do nhiều nguyên nhân gây nên. Trong đó chừng 70% là đường máu thấp dạng chức năng, sau đó là u tế bào sản xuất insulin, các loại bệnh nội tiết và bệnh gan. Biểu hiện chủ yếu là thần kinh trung khu và hệ thống thần kinh giao cảm bị kích thích.
Bệnh xuất hiện khi đói, trạng thái bệnh từ nhẹ đến nặng, số lần phát cơn từ ngẫu nhiên đến thường xuyên. Biểu hiện: đầu váng, mắt hoa, mất sức, tim hoảng loạn, đổ mồ hôi, sắc mặt màu trắng xanh, lo lắng, run rẩy, thậm chí co giật, đột nhiên ngã người. Lúc đầu là lớp vỏ đại não bị ức chế, khám thấy khả năng nhận biết dần dần mất đi. Nặng hơn, các loại phản xạ mất, đồng tử thu nhỏ, hô hấp nông yếu, huyết áp hạ thấp.
Hai thể theo cổ truyền
Theo y học cổ truyền, bệnh đường máu thấp thuộc phạm trù “Hư lao”, “Quyết chứng”. Nguyên nhân cơ chế bệnh sinh dẫn đến bệnh đường máu thấp là do khí huyết không đầy đủ hoặc khí hư đàm tụ.
Khí huyết không đầy đủ, đó là tiên thiên bẩm phú không đầy đủ, hậu thiên lao động quá độ, ăn uống thất điều, tư lự quá sức, sau khi bệnh phát không điều dưỡng chu đáo, dẫn tới khí huyết không đầy đủ, tâm tỳ suy. Tỳ vị là nguồn sinh hóa của khí huyết, tỳ khí hư thì nguồn sinh hóa không đầy đủ, tỳ chủ thăng do tỳ hư không thể lên được thì sắc mặt trắng xanh, đầu váng mắt hoa, dưới không đến tứ chi thì tứ chi mệt mỏi mất sức, vệ khí hư thì mồ hôi đầm đìa. Tim chịu trách nhiệm về huyết, tàng thần, thâm thần mất nuôi dưỡng, thần không thu liễm vào trong thì tim hồi hộp phiền loạn.
Phép chữa ở trường hợp này là “Bổ ích khí huyết”, dưỡng tâm tinh thần. Bài thuốc gồm: đẳng sâm 30g, bạch truật 9g, phục linh 9g, chích cam thảo 6g, sinh địa 30g, thục địa 30g, xuyên khung 9g, bạch thược 9g, đương quy 9g, long nhãn nhục 30g, sơn thù du 9g.
Còn khí hư đàm tụ là do ăn uống không điều độ, bệnh lâu ngày sau phẫu thuật, tình chí uất, nhiều suy tư, dẫn tới tỳ mất vận hóa kiện toàn, tích thấp sinh đàm, đàm theo khí thăng lên che thanh khiếu, do vậy tinh thần lơ mơ ý loạn; đàm ngăn đường khí thì trong hầu nhiều đàm; đàm trọc ngăn ở trong, vị khí ngược lên thì nôn mửa đàm rãi, đói không thể ăn; đàm ngăn kinh lạc thì tứ chi tê dại run rẩy. Phép điều trị trong trường hợp này là “Trừ đàm khai khiếu, bổ khí phù chính”. Bài thuốc dùng gồm các vị: xương bồ 15g, cam thảo 6g, nam tinh 9g, bán hạ 9g, phục linh 9g, chỉ thực 9g, thục địa 15g, đẳng sâm 10g. Các bài thuốc trên sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục 10 ngày.
Phòng bệnh hạ đường huyết
Không nên nhịn đói, hoặc để cơ thể bị đói quá lâu, không nên nhịn ăn mà hoạt động thể lực quá mức. Nhất thiết không được bỏ bữa sáng, đặc biệt là người già, trẻ em, những người có bệnh mạn tính, cơ thể yếu.
Món ăn giúp hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường
Canh khổ qua: Khổ qua 100 g. Rửa sạch khổ qua, xắt lát, cho vào nồi, đổ nước vừa phải nấu thành canh. Chia canh ra 2 lần ăn trong ngày. Công hiệu của món này làm giảm đường huyết, phù hợp trong chứng tiểu đường bị nhẹ.
Cháo ý dĩ (bo bo), hoài sơn (củ mài): Bột hoài sơn 50 g, ý dĩ 25 g. Cho 2 vị này vào nồi, đổ đủ nước hầm nhừ thành cháo loãng. Chia ra làm 2 buổi, ăn khi cháo đang còn nóng trong ngày. Công hiệu của món này là ích thận, kiện tì nên thích hợp với người bị bệnh tiểu đường do bị thận hư.
Canh đậu đỏ, bí đao: Đậu đỏ và bí đao lượng đủ ăn trong một bữa. Cho đậu đỏ vào cùng nước nấu gần chín, sau mới cho bí đao vào nấu nhừ, uống nước và ăn hết cái, ngày ăn 2 lần, có thể dùng thường xuyên. Công hiệu của món này là lợi tiểu, giải độc nên thích hợp trong bệnh tiểu đường sinh sưng phù, da ghẻ lở, mụn nhọt khó lành.
Nấm xào thịt nạc: Nấm tươi 250 g, thịt lợn nạc 50 g, dầu mè 25 g, rượu gạo một chút, muối vừa đủ. Rửa sạch nấm, thịt lợn nạc xắt lát, cho vào xào chung với dầu mè, nêm gia vị vừa ăn. Dùng làm thức ăn trong bữa cơm. Công hiệu của món này là dưỡng khí, bổ huyết, tăng sức đề kháng cho cơ thể
Nấm xào thịt nạc thích hợp với bệnh tiểu đường có gan nhiễm mỡ mãn tính, khí huyết hư nhược
.
Cháo cà rốt: Cà rốt tươi 100 g, gạo dẻo 150 g. Rửa sạch cà rốt, xắt miếng, nấu chung với gạo dẻo thành cháo nhừ. Ăn cháo vào buổi sáng và chiều. Cần ăn vài ngày liền. Công hiệu của món này là kiện tì, lý khí, giáng trọc, giảm mỡ. Thích hợp với bệnh tiểu đường có kèm theo mỡ máu cao, tì vị không điều hòa, bụng trướng khó chịu.
Cháo sâm, thiên môn đông: Nhân sâm 6 g, thiên môn đông 30 g, gạo lứt 100 g. Cho gạo lứt vào nồi đổ nước vừa nấu thành cháo. Khi cháo gần nhừ thì cho nhân sâm cùng thiên môn đông đã xắt lát mỏng vào và tiếp tục nấu nhừ thành cháo. Chia ra 2 lần, ăn vào buổi sáng và chiều. Cần phải ăn liền trong 7 – 10 ngày. Công hiệu của món này là ích khí, dưỡng tâm nên thích hợp với bệnh tiểu đường bị kèm theo bệnh mạch vành tim, tâm khí bất túc.
Cháo đào nhân: Đào nhân 10 đến 15 g, gạo dẻo 100 g. Giã nát đào nhân ép lấy nước, bỏ bã, cho vào nồi đổ cùng gạo, nước vừa đủ, nấu nhỏ lửa đến nhừ thành cháo là được. Chia ra ăn vào buổi sáng và chiều. Cần ăn vài ngày liền. Công hiệu của món ăn này là hoạt huyết hóa ứ, thích hợp với người mắc bệnh tiểu đường bị kèm thêm bệnh vành tim, khí trệ, huyết ứ.
Cháo hà thủ ô: Hà thủ ô 30 – 60 g, sơn dược (khoai mài) 40 g, táo đỏ 3 – 5 quả, gạo tẻ thơm 100 g. Nấu kỹ nhỏ lửa hà thủ ô và sơn dược, gạn lấy nước cho gạo và táo đỏ vào nấu nhừ thành cháo, chia ra ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều. Công hiệu của món này là tư bổ can, thận, ích khí, dưỡng âm. Thích hợp cho người mắc bệnh tiểu đường kèm theo bệnh vành tim và can, thận đều hư.
Gà ác hoàng kỳ: Hoàng kỳ sống 30 – 50 g, gà ác 1 con. Gà thịt làm sạch lông, bỏ lòng, cho gà cùng hoàng kỳ nấu sôi nhỏ lửa, sau đó vớt bỏ hết váng, để thêm một lúc thì vớt nốt xác hoàng kỳ ra, cho mắm, muối vừa miệng. Dùng mỗi ngày 1 thang này, cần ăn từ 3 đến 10 ngày liền. Công hiệu của món này là ích khí dưỡng tâm, rất có công hiệu với người mắc bệnh tiểu đường mà tâm hư, thận hư, ra mồ hôi trộm.
Cháo hải sâm: Hải sâm 15 g, gạo trắng 30 g. Làm sạch hải sâm, xắt miếng nhỏ, sau cho vào cùng gạo đổ nước nấu nhừ thành cháo. Ăn vào buổi sáng, ngày 1 thang. Cần ăn 3 – 5 ngày liền. Công hiệu của món này là hoạt huyết, hóa ứ, lý khí, dứt đau. Thích hợp với bệnh tiểu đường kèm theo viêm tuyến tiền liệt, huyết ứ.
Bài thuốc điều trị bệnh tiểu đường:
Cách điều trị bệnh tiểu đường chủ yếu là phối hợp giữa chế độ ăn, vận động và thuốc. Trong Đông y, tùy bệnh ở tam tiêu hay thượng tiêu, trung tiêu mà dùng bài thuốc thích hợp.
Bệnh tiểu đường do thượng tiêu:
Người bệnh khát nhiều, thích uống nước, họng ráo, miệng khô, đi tiểu nhiều lần, lượng nước tiểu nhiều; rêu lưỡi vàng mỏng; mạch hồng sác. Dùng một trong các bài:
Bài thuốc 1:
Thiên hoa phấn thang: thiên hoa phấn 36g, sinh địa 24g, mạch môn bỏ lõi 24g, đạo mễ 16g, cam thảo 8g, ngũ vị tử 8g. Sắc các vị thuốc lấy 600ml, bỏ bã, cho đạo mễ vào nấu chín, lọc bỏ bã. Chia làm 4 lần: ngày uống 3 lần, tối uống 1 lần.
Bài thuốc 2:
Nhị đông thang: thiên môn (bỏ lõi) 16g, mạch đông (bỏ lõi) 24g, tri mẫu 8g, nhân sâm 4g, thiên hoa phấn 8g, hoàng cầm 8g, cam thảo 4g, lá sen 8g. Sắc uống trong ngày.
Bệnh tiểu đường do trung tiêu:
Người bệnh ăn nhiều, chóng đói, cồn ruột, người gầy sút nhanh; rêu lưỡi vàng khô; mạch hoạt có lực. Dùng một trong các bài:
Bài thuốc 1:
Tang dịch thang: huyền sâm 32g, sinh địa 32g, mạch môn (bỏ lõi) 32g, thiên hoa phấn 32g, hoàng liên 10g. Sắc lấy 300ml nước thuốc, chia 4 lần (ngày uống 3 lần, tối uống 1 lần).
Bài thuốc 2:
Điều vị thừa khí thang: đại hoàng (bỏ vỏ tẩm rượu sao) 16g, chích thảo 8g, mang tiêu 12g. Sắc kỹ đại hoàng với cam thảo lấy 300ml, bỏ bã, cho mang tiêu vào, đun sôi nhẹ, uống lúc thuốc còn ấm, ngày 3 lần.
Bài thuốc 3:
Sinh địa bát vật thang: sinh địa 15g, tri mẫu 8g, hoàng cầm 6g, hoàng bá 6g, lá sen 8g, sơn dược 8g, mạch đông (bỏ lõi) 15g, hoàng liên 6g, đơn bì 8g. Sắc uống khi thuốc còn ấm.
Bệnh tiểu đường do hạ tiêu:
Người bệnh đái nhiều, lượng nước nhiều và có đường, mỏi mệt, đau lưng, mỏi khớp, miệng khô, lưỡi ráo, lòng bàn tay bàn chân nóng, lưỡi ít rêu; mạch tế sác, vô lực. Dùng một trong các bài:
Bài thuốc 1:
Lục vị địa hoàng hoàn: hoài sơn 16g, trạch tả 12g, đan bì 12g, sơn thù 16g, bạch linh 12g, thục địa 32g. Xay khô, tán bột, luyện mật làm hoàn, viên bằng hạt ngô. Ngày 2 lần, mỗi lần 15 viên, uống với rượu loãng.
Bài thuốc 2:
Lục vị địa hoàng gia thạch hộc thiên hoa phấn: hoài sơn 16g, trạch tả 12g, đan bì 12g, sơn thù 16g, bạch linh 12g, thục địa 32g, thiên hoa phấn 12g, thạch hộc 12g. Sắc lấy 400 ml; uống 4 lần (ngày 3 lần, tối 1 lần).
Bệnh tiểu đường lâu ngày:
Bệnh tiểu đường lâu ngày với đủ các triệu chứng của tiêu khát kèm theo đau lưng, chân tay lạnh, đại tiện lỏng hoặc ngũ canh tiết tả, sôi bụng, da sạm đen, mắt thâm quầng, mạch hư nhược. Dùng bài Tam nhân lộc nhung thang: sơn thù du 16g, ngưu tất 12g, huyền sâm 12g, địa cốt bì 12g, lộc nhung 12g, mạch môn (bỏ lõi) 16g, thục địa 16g, hoàng kỳ 12g, nhục thung dung 12g, kê nội kim 8g, phá cố chỉ (tẩm muối sao) 8g, nhân sâm 8g, ngũ vị tử 6g. Để riêng lộc nhung; các vị sắc lấy 400ml nước, cho lộc nhung vào đun tan. Uống nóng 4 lần (ngày 3 lần, tối 1 lần). Có thể làm viên hoàn dùng dần.
Hỏi đáp liên quan
Con tôi năm nay 15 tuổi, mỗi bữa ăn 2 chén cơm, xin cho tôi hỏi vì sao cháu rất hay bị hạ đường huyết vào buổi chiều? Trần Thị Huyền (Yên Bái)
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc đường huyết bị hạ thấp: bị lả do đói; người ốm nặng, lâu ngày không ăn được; mắc các bệnh ung thư, bệnh đường ruột, bệnh gan, bệnh nội tiết... Những bệnh nhân bị u tụy tạng có triệu chứng rất nặng, thường xảy ra cơn hôn mê, co giật. Bệnh nhân phải ăn luôn miệng nên bị chứng béo phì. Bệnh của một số tuyến nội tiết khác như giảm năng thùy trước tuyến yên, giảm năng tuyến thượng thận. Do tăng insulin đột ngột: ở người sau cắt dạ dày (hội chứng Dumping), sau gắng sức, sau cho con bú.
Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Người đang điều trị bệnh tiểu đường, bị hạ đường huyết xuất hiện 1-2 giờ sau khi tiêm insulin. Các trường hợp không biết được nguyên nhân (chiếm khoảng 70%), triệu chứng thường nhẹ. Trước hết nếu hay bị hạ đường huyết cháu phải đi khám để loại trừ các nguyên nhân do bệnh khác kể trên. Nếu hay bị hạ đường huyết vào buổi chiều thì cháu nên xem lại năng lượng của bữa trưa có đủ hay không.
Ở tuổi đang lớn của cháu, nhu cầu về các chất dinh dưỡng rất cao, nếu ăn không đủ chất, đến cuối giờ chiều lượng đường trong máu giảm sẽ dẫn đến hạ đường huyết. Những người hay bị hạ đường huyết không rõ nguyên nhân cần chuẩn bị sẵn đường, bánh, kẹo, khi thấy đói thì ăn ngay. Nếu cháu thường xuyên bị thì nên cho cháu đi khám để được xét nghiệm tìm nguyên nhân gây hạ đường huyết.
Có nhiều nguyên nhân khiến đường huyết bị hạ thấp: bị lả do đói, mắc bệnh đường ruột, bệnh gan, bệnh nội tiết.
Cháu năm nay 15 tuổi, mỗi bữa ăn 2 bát cơm, nhưng vì sao cháu rất hay bị xỉu vào buổi chiều? Nếu có gì ăn thì đỡ ngay, nghe nói do hạ đường huyết. Xin hỏi tại sao? Vũ Thanh Thảo (Thanh Hóa)
Trả lời:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc đường huyết bị hạ thấp. Nguyên nhân biết được gồm: bị lả do đói; người ốm nặng, lâu ngày không ăn được; mắc các bệnh ung thư, bệnh đường ruột, bệnh gan, bệnh nội tiết.
Bệnh tuyến nội tiết: u tuyến tụy ở các đảo Langerhans, có một u (chiếm 80%) hay nhiều u, u lành tính hay ác tính, bài tiết ra insulin. Những bệnh nhân bị u tụy tạng có triệu chứng rất nặng, thường xảy ra cơn hôn mê, co giật. Bệnh nhân phải ăn luôn miệng nên bị chứng béo phì. Bệnh của một số tuyến nội tiết khác như giảm năng thùy trước tuyến yên, giảm năng tuyến thượng thận.
Người hay bị hạ đường huyết nên chuẩn bị sẵn đường, bánh, kẹo, khi thấy đói thì ăn ngay (nguồn ảnh: internet)
Do tăng insulin đột ngột: ở người sau cắt dạ dày (hội chứng Dumping), sau gắng sức. Người đang điều trị bệnh tiểu đường, bị hạ đường huyết xuất hiện 1-2 giờ sau khi tiêm insulin. Các trường hợp không biết được nguyên nhân (chiếm khoảng 70%), triệu chứng thường nhẹ.
Trước hết, nếu hay bị hạ đường huyết cháu phải đi khám để loại trừ các nguyên nhân do bệnh khác kể trên. Nếu hay bị hạ đường huyết vào buổi chiều cháu nên xem lại năng lượng của bữa trưa có đủ hay không. Ở tuổi cháu, tuổi đang lớn, nhu cầu về các chất dinh dưỡng rất cao, nếu ăn không đủ chất, đến cuối giờ chiều, lượng đường trong máu giảm sẽ dẫn đến hạ đường huyết.
Những người hay bị hạ đường huyết không rõ nguyên nhân cần chuẩn bị sẵn đường, bánh, kẹo, khi thấy đói thì ăn ngay.
Tăng đường huyết ở phụ nữ mang thai
Thức ăn dành cho người bị bệnh huyết áp thấp .
Tăng đường huyết sau ăn -
Thức ăn chữa bênh tiểu đường rất hiệu quả -
Bệnh tiểu đường
Ăn kiêng cho người tiểu đường
(st)