Nguyên nhân của bệnh hen phế quản và cách trị bệnh nhanh khỏi nhất

Nguyên nhân của bệnh hen phế quản và cách trị bệnh nhanh khỏi nhất. Hen phế quản, còn được gọi bệnh suyễn là bệnh khó thở từng cơn do co thắt phế quản kèm tăng tiết dịch, nguyên nhân do nhiều dị nguyên kích thích như phấn hoa, lông chó mèo, nấm mốc, bụi các loại…


Bệnh hen là gì?

Bệnh hen là bệnh viêm mạn tính (kéo dài) của phế quản.

Hiện tượng viêm phù nề này là hậu quả của sự phối hợp giữa:

Phế quản "yếu ớt" của người bệnh hen (phế quản của bệnh nhân hen dễ bị tổn thương khi tiếp xúc với tác nhân kích thích từ môi trường bên ngoài hay bên trong cơ thể hơn so với người bình thường).

Tác nhân gây hen đến từ môi trường bên ngoài hay bên trong cơ thể.

Viêm mạn tính ở phế quản làm cho phế quản bị tắc nghẽn qua 3 cơ chế:

  • Co thắt.

  • Phù nề.

  • Ứ đọng đàm nhớt.

Bệnh này được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau:

  • Ho khan, dai dẳng, xuất hiện thành nhiều cơn.

  • Khò khè trong lồng ngực.

  • Khó thở: biểu hiện tắc nghẽn đường thở đã nhiều.

Nguyên nhân gây bệnh hen:

BỆNH HEN = CƠ ÐỊA BỆNH HEN + YẾU TỐ GÂY BỆNH HEN

Cơ địa bệnh hen:

Người có cơ địa hen là người có các yếu tố nguy cơ dễ bị hen khi tiếp xúc với các yếu tố gây viêm hơn những người khác. Ðó là các yếu tố:

Yếu tố di truyền:

- Trong gia đình người bệnh hen, người ta cũng thường thấy có cha mẹ hay anh em của bệnh nhân này cũng bị hen. Ngược lại nếu cha hoặc mẹ bị hen thì con sinh ra có khả năng mắc hen nhiều gấp 2 đến 3 lần người bình thường. Ðiều này cũng có nghĩa là khi cha mẹ bị hen thì không chắc chắn là con sinh ra sẽ bị hen.

- Thực ra người ta đã tìm thấy một số các bất thường về gien có khả năng tăng cao nguy cơ bị hen, tuy nhiên không có một yếu tố nào được xem là quyết định trong cơ chế sinh bệnh cả.

- Như vậy không thể dùng các xét nghiệm về gien để chẩn đoán bệnh hen trước sinh và người ta cũng không thể điều trị hen bằng các biện pháp điều trị làm thay đổi cấu trúc gien được.

Yếu tố dị ứng:

- Hay còn gọi là người có cơ địa dị ứng: da (nổi mề đay, ngứa khi tiếp xúc vật lạ như lông con sâu róm, hoặc khi ăn đồ biển như cua ghẹ), tai mũi họng (viêm kết mạc, viêm mũi dị ứng), tiêu hóa (dị ứng thức ăn).

- Tuy nhiên cũng phải lưu ý là có rất nhiều bệnh nhân hen hoàn toàn không có yếu tố dị ứng này.

Yếu tố gây bệnh hen:

Từ môi trường bên ngoài cơ thể:

Yếu tố gây dị ứng:

- Con mạt nhà: là những con côn trùng bé li ti nằm trong bụi nhà, có rất nhiều trên giuờng chiếu, chăn màn.

- Lông chó mèo.

- Phấn hoa.

- Bụi phát sinh trong quá trình lao động.

Yếu tố gây ô nhiễm:

- Môi trường sống: khói của động cơ, xe cộ chứa nhiều: SO2, NO2, 03.

- Môi trường lao động: gây ra loại hen nghề nghiệp ( hơn 250 chất) thường gặp bệnh nhân hen làm nghề: thợ làm bánh mì, thợ sơn dùng loại bình phun sương, thợ làm tóc.

Từ môi trường bên trong cơ thể:

Viêm mũi dị ứng:

- Mũi bị viêm sẽ không làm việc tốt được: không lọc sạch, sưởi ấm, làm ẩm không khí hít vào. Không khí lạnh, khô và bẩn hít vào sẽ làm tổn thương phế quản lâu dần và dẫn đến hen.

- Cơ địa viêm mũi dị ứng là một cơ địa dị ưng và là yếu tố thuận lợi để phát sinh bệnh hen.

Viêm trào ngược dạ dày thực quản:

- Viêm trào ngược dạ dày thực quản là bệnh lý trong đó dịch dạ dày trào lên thực quản, hầu họng và miệng.

- Bệnh này biểu hiện bởi cảm giác đau rát bỏng sau xương ức, thường xuất hiện sau bữa ăn, đau nặng lên bởi tư thế nằm ngửa hoặc cúi người ra trước. Có thể kèm thêm triệu chứng ợ hơi, đắng miệng, ho và đôi khi là thở rít. Khám họng sẽthấy hiện tượng viêm vùng hầu họng và thanh quản.

- Dịch vị trào lên khi rơi vào khí quản, phế quản sẽ gây tăng tính dễ bị kích thích của phế quản và sẽ biểu hiện thường nhất là những cơn ho, và đôi khi là những cơn hen.

Nguyên nhân gây cơn hen:

CƠN HEN = BỆNH HEN N���N TẢNG + YẾU TỐ GÂY CƠN HEN

Bệnh hen nền tảng:

Mức độ nặng nhẹ của bệnh hen nền tảng: bậc hen càng nặng thì phế quản càng bị viêm phù nề càng dễ co thắt, ứ đọng đàm nhớt khi tiếp xúc với yếu tố gây cơn hen hơn do đó càng dễ vào cơn hen hơn.

Chế độ điều trị ngừa cơn: càng không phù hợp, bệnh nhân càng không tuân thủ điều trị tốt chừng nào thì khả năng vào cơn hen càng nhiều chứng ấy.

Yếu tố gây cơn hen:

Những yếu tố gây bệnh hen hoàn toàn có thể gây cơn hen:

- Yếu tố bên ngoài cơ thể : yếu tố gây dị ứng, yếu tố gây ô nhiễm.

- Yếu tố bên trong cơ thể: viêm mũi dị ứng, viêm trào ngược dạ dày thực quản.

Bên cạnh những yếu tố đã kể trên có những yếu tố khác đặc thù gây cơn hen.

- Nhiễm trùng hô hấp trên do siêu vi hoặc do vi khuẩn.

- Hít phải khói đun bếp củi, hơi chiên xào thức ăn.

- Hít phải lông mèo, lông chó, nấm mốc.

- Hít phải hơi bột mì, hơi hóa chất.

- Hít thuốc lá chủ động hay thụ động.

- Vận động thể lực.

- Uống nhầm một số loại thuốc kỵ trong hen.

- Ăn nhằm thức ăn dị ứng: tôm cua, cá biển.

- Dị ứng với một số chất bảo quản thực phẩm.

- Xúc động tâm lý.

- Chu kỳ kinh nguyệt, thai kỳ.

- Thay đổi thời tiết trong năm.

Lưu ý là không phải mọi bệnh nhân hen đều có những yếu tố gây cơn hen giống nhau, có thể ở bệnh nhân này yếu tố gây cơn hen là ăn tôm cua biển, nhưng ở bệnh nhân khác thì ăn tôm cua biển không bị lên cơn mà tiếp xúc với lông chó mèo hay là hít phải hơi thuốc lá mới lên cơn hen.

Hen phế quản, còn được gọi bệnh suyễn là bệnh khó thở từng cơn do co thắt phế quản kèm tăng tiết dịch, nguyên nhân do nhiều dị nguyên kích thích như phấn hoa, lông chó mèo, nấm mốc, bụi các loại…


Bệnh có thể có yếu tố di truyền, không do vi khuẩn trực tiếp gây nên nhưng các viêm nhiễm hô hấp mạn tính đường hô hấp có thể phối hợp dẫn đến cơn
hen. Yếu tố thời tiết như đổi mùa, thay đổi thời tiết, nhiễm lạnh, mưa phùn gió bấc ẩm ướt là những yếu tố cho cơn hen khởi phát.


Triệu chứng chủ yếu của
hen Phế quản:


Ho, khó thở, nặng ngực tái đi tái lại nhiều lần,hay gặp về đêm khuya, nửa đêm về sáng. Do phế quản tăng tiết dịch nhầy và co thắt các cơ phế quản nên rất khó thở, đặc biệt khó thở ra. Khó thở tạo thành tiếng rít, như tiếng cò cử, không cần ống nghe của bác sĩ, người bệnh và người bên cạnh tự nghe thấy tiếng rít khó thở này. Cơn khó thở tùy nặng nhẹ có thể từ 5-10 phút cho đến hàng giờ. Sau đó tự lui dần với cơn ho, khạc đờm trong đặc quánh. Đây vừa là triệu chứng vừa là tất cả phiền toái của bệnh cần điều trị, nên chữa
hen phế quản thực chất là chữa cơn khó thở. Hiếm gặp hơn là cơn hen ác tính khó thở trầm trọng, có khi ngừng thở, tím tái, hạ huyết áp dẫn đến tử vong.


Theo thống kê, ở nước ta hiện nay cứ 1000 người có 50-60 người mắc
bệnh hen phế quản, như vậy, Bệnh hen là một trong các bệnh chiếm tỷ lệ cao trong số các bệnh không do nhiễm khuẩn. Trước đây, ho hen, hen suyễn là những cách gọi mộc mạc trong dân gian ai cũng hiểu chứng tỏ hen phế quản không xa lạ với dân Việt Nam; nhưng ngày nay, việc đối phó, kiểm soát bệnh hen đã có rất nhiều tiến bộ để người bị bệnh hen chung sống tương đối bình thường với một bệnh mạn tính.

Vì lý do nêu trên, chữa bệnh
hen Phế quản nhằm vào điều trị cắt cơn hen, dự phòng cơn hen và điều trị dự phòng để các cơn hen càng thưa ra càng tốt. Người bệnh bịhen phế quản đã quá quen với các thuốc cắt cơn hen, các loại thuốc xịt, thuốc dạng hít đã được bác sĩ chỉ định cho nhiều lần nên vấn đề cắt cơn hen không khó khăn đến mức phải vào viện như hồi xưa, nhưng cần chú ý là luôn luôn mang theo thuốc bên người trong mọi hoàn cảnh để không bị động. Nếu để lên cơn hen rồi mới lo chạy đi mua thuốc thì rất nguy hiểm cho bệnh nhân. Định kỳ 6 tháng đến 1 năm vẫn phải đi khám chuyên khoa hô hấp với thầy thuốc quen chữa cho mình để được đánh giá, điều chỉnh lại loại thuốc và liều dùng nhằm chủ động kiểm soát được cơn khó thở.


Điều trị dự phòng cơn hen là mục tiêu chính mà cả thầy thuốc và người bệnh ao ước nhất vì không có gì sung sướng hơn khi đỡ được những cơn
hen như đè ngực bóp cổ, gây hốt hoảng tột độ. Dự phòng lâu dài bằng thuốc nên có chỉ định của bác sĩ dùng các loại thuốc dạng hít và thuốc xịt, khí dung vì ít gây tác dụng phụ kết hợp thuốc chống viêm loại corticoid. Cũng theo định kỳ khám lại để điều chỉnh thuốc men cho phù hợp.


Nhưng dự phòng tốt nhất là điều chỉnh lối sống, thói quen sinh hoạt và phòng tránh những yếu tố bất lợi. Tuy chưa có thống kê đầy đủ, nhưng một điều nhiều người biết và đã thực hiện có kết quả rất tốt là thay đổi khí hậu vùng miền. Những người ở phía bắc chuyển vào nam hoặc ngược lại từ nam ra bắc sẽ dần dần giảm đến hết hẳn cơn hen.

Ngoài ra, các cách dự phòng dễ hiểu dễ làm là:

Tránh xa các dị nguyên gây dị ứng như thức ăn gây dị ứng, phấn hoa có mật độ cao trong mùa hoa nở rộ, các loại bụi khói, khói thuốc lá, lông chó mèo và các loại sợi bông, sợi nhân tạo của chăn, đệm, thảm trải nhà.


Cũng nên tránh những stress để khỏi bị những cảm xúc bất lợi dẫn đến cơn khó thở.


Điều cuối cùng, rất hữu hiệu nhưng đòi hỏi sự kiên trì rèn luyện là tập thở. Có thể tham gia các câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời để có bạn cùng giúp nhau kiên trì tập thở. Động tác tập thở cũng đơn giản nhưng cũng phải kiên trì: tập thở bụng, dùng co giãn của cơ hoành để hít vào được sâu nhất, nhiều oxy nhất và khi thở ra tống được hết khí cặn ra ngoài. Mỗi ngày dành ra 2 – 3 lần, mỗi lần 20-30 phút tập thở ở nơi thoáng khí, yên tĩnh, thế là “thiền”, là phòng được bệnh và cải thiện được sức khỏe.


Cách chữa bệnh hen phế quản

Chữa hen phế quản theo dược thảo

  • Hạt cải củ: Chữa hen suyễn, ho nhiều đờm, sốt. Ngày sắc uống từ 6-12 g.

  • Củ gừng: Sao khô, dùng 3-6g/ngày dạng thuốc sắc hay bột. Gừng được dùng trị hen phế quản, viêm phế quản, viêm họng, chống cảm lạnh và chống nhiễm khuẩn trong các chứng ho và sổ mũi.

  • Ngải cứu: Dùng thân và lá ngải cứu khô đốt và hít khói chữa hen phế quản.

  • Táo ta: lá táo được dùng trị hen, viêm phế quản, khó thở. Viên ngậm bào chế từ lá táo đã có tác dụng cắt cơn hen phế quản rõ rệt. Với liều ngậm 5 viên/ngày (mỗi lần 1 viên), nó còn có tác dụng dự phòng xuất hiện cơn hen trong một số trường hợp, đồng thời có tác dụng long đờm, giảm ho.

  • Tía tô: Có tác dụng ức chế phế cầu khuẩn, trực khuẩn lao và một số chủng vi khuẩn khác. Luteolin trong tía tô có tác dụng chống dị ứng. Hạt tía tô được dùng trị hen suyễn và ho có đờm. Ngày dùng 3-10 g hạt tía tô sắc uống.

Chữa hen phế quản dùng thuốc Tây Y

Các thuốc dùng trong điều trị hen phế quản bao gồm 2 nhóm chính: nhóm khống chế và loại bỏ quá trình viêm do cơ chế dị ứng và các thuốc dùng để lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách chống co thắt hệ thống phế quản nhỏ.

Trong nhóm các thuốc chống viêm, hiện nay phổ biến nhất là các chế phẩm corticoid. Các thuốc này điều hòa việc giải phóng các hoạt chất trung gian gây viêm các cytokin (hay còn gọi là interleukin) để giảm sự lôi kéo bạch cầu ái toan và các tế bào mast là loại sản sinh nhiều chất trung gian miễn dịch IgE là chất làm tăng cường và duy trì phản ứng viêm. Ngoài ra, corticoid còn có khả năng làm tăng độ nhạy cảm và số lượng các thụ thể bêta 2 (b2 receptors) nên có tác dụng gián tiếp làm giãn phế quản. Trong lâm sàng thường sử dụng corticoid đường toàn thân như cortancyl, prednison,  prednisolon, solumédrol (uống hoặc tiêm liều cao từ 2-10mg/kg/24 giờ) để khống chế cơn hen, nhất là cơn hen nặng và hen ác tính. Hiện nay trên thị trường đã sản xuất được các chế phẩm corticoid dạng hít đơn thuần như béclomethason dipropionat (bécotid), budéssonid (pulmicort), fluticason (flexotid) hay phối hợp như ventid (gồm bécotid và salbutamol) hoặc seretid (fluticason và salbutamol). Các thuốc này chủ yếu tác dụng tại đường hô hấp do không hoặc rất ít thấm vào máu nhờ cấu trúc đặc biệt và phân tử lớn của thuốc vì vậy không gây các tác dụng phụ toàn thân đáng kể, cho phép sử dụng lâu dài, an toàn, hiệu quả cao. Tác dụng phụ chủ yếu của các thuốc này là nhịp tim nhanh, run tay chân, hạ kali máu và tăng đường máu.

Ngoài ra, hiện nay trong điều trị hen, người ta bắt đầu chú ý đến các thuốc chống viêm không phải corticoid. Các thuốc này cũng có tác dụng ngăn cản quá trình viêm tại phế quản bằng cách ức chế tế bào sinh chất gây viêm như cromoglycate (lomudal), nedocromil (tilade), các thuốc ức chế thụ thể histamin H1 và ức chế yếu tố hoạt hóa tiểu cầu như ketotifen (zaditen), hoặc các thuốc ức chế trực tiếp yếu tố hoạt hóa tiểu cầu như singulair. Các thuốc này không có tác dụng phụ đáng kể. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của chúng là giá thành cao.

Các thuốc dùng để lập lại sự lưu thông của đường dẫn khí bằng cách chống co thắt hệ thống phế quản nhỏ gồm 3 nhóm chính sau:

Nhóm 1 gồm các thuốc kích thích thụ thể b2 (làm tăng tổng hợp AMP vòng, gây giãn phế quản) bao gồm các thuốc chủ yếu dùng trong điều trị cắt cơn hen như: terbutalin (bricanyl) dạng uống (viên, xi-rô) hoặc tiêm bắp, tiêm truyền tĩnh mạch và albuterol (ventolin, salbutamol) dạng uống (viên, xi-rô) hoặc tiêm truyền tĩnh mạch.

Nhóm 2 gồm các thuốc nhóm methyl xanthin (theophylin và aminophylin) gây giãn phế quản mạnh do ức chế dị hóa MP vòng qua cơ chế ức chế men phosphodiesteras. Theophylin ít tan trong nước nên chỉ dùng ở dạng uống. Aminophylin tan trong nước nên có thể tiêm tĩnh mạch phù hợp với các tình huống cấp cứu, nhưng cần liều cao hơn (1mg aminophylin tương đương 0,85mg theophylin). Các thuốc này có giới hạn an toàn điều trị thấp, dễ có tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, đau đầu, co giật, nhất là khi phối hợp với kháng sinh thuộc nhóm macrolid.

Nhóm 3 là các thuốc làm giãn phế quản do ức chế guanosin mono-phosphat vòng (GMPc) như các thuốc thuộc nhóm kháng cholin đơn thuần như oxitropium bromure (tersigat) hay ipratropium bromure (atrovent) hoặc phối hợp với các thuốc kích thích thụ thể b2 như bronchodual (gồm fenoterol và ipratropium). Nhược điểm lớn nhất của các thuốc này là làm khô miệng và kích thích họng.

Trên đây là các nhóm thuốc sử dụng trong điều trị HPQ nói chung. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc nào và  phối hợp các thuốc ra sao còn phụ thuộc vào lứa tuổi, tình trạng lâm sàng của bệnh nhân (cơn nhẹ hay nặng hay cơn hen ác tính), mục đích điều trị (dự phòng hay cắt cơn).


Những phương pháp điều trị bệnh hen phế quản

Điều trị  bệnh hen phế quản  chủ yếu theo hai hướng: Đông y và tây Y.

Theo Tây Y


Như chúng ta đều biết và hiểu rõ vềBệnh hen phế quảnHầu hết các thuốc điều trịchữa hen phế quảncó tác động chủ yếu là giảm sự co thắt phế quản (thuốc dãn phế quản) hoặc giảm viêm (thuốc corticosteroids). Trong điều trị hen phế quản, các thuốc dạng hít nhìn chung được ưa chuộng hơn so với các thuốc dạng viên nén hoặc dạng lỏng được uống qua đường miệng. Các thuốc dạng hít tác động trực tiếp lên bề mặt và cơ của đường hô hấp, nơi mà các triệu chứng của hen phế quản bắt đầu. Sự hấp thu của các thuốc dạng hít vào các nơi khác của cơ thể là rất ít. Do đó các tác dụng phụ ít gặp hơn so với các thuốc dạng uống.

Các thuốc dạng hít bao gồm:

Thuốc đồng vận thụ thể beta-2 (beta-2 agonist)
Thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic)
Corticosteroids
Cromolyn sodium
Các thuốc dạng uống bao gồm:

Aminophylline
Thuốc đối vận leukotriene (leukotriene antagonist)
Viên nén corticosteroids
Trước đây, một trong những thuốc được sử dụng để điều trị
bệnh hen phế quảnlà adrenaline (epinephrine). Adrenaline có cơ chế tác động nhanh trong việc mở rộng đường thở (tác dụng dãn phế quản). Nó vẫn còn được sử dụng trong các tình trạng cấp cứu của hen phế quản. Thật không may là adrenaline có nhiều tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, nhức đầu, buồn nôn, nôn, bồn chồn, hoảng loạn.

Có nhiều thuốc về mặt hóa học tương tự với adrenaline đã được bào chế. Những thuốc này được gọi là đồng vận beta-2 có tác dụng làm dãn phế quản như adrenaline nhưng không có nhiều tác dụng phụ. Thuốc đồng vận beta-2 là thuốc dãn phế quản dạng hít. Được gọi là "đồng vận" bởi vì chúng thúc đẩy những tác động của thụ thể beta-2 ở các cơ thành
phế quản. Các thụ thể này có tác động làm dãn các cơ ở thành phế quản, kết quả là làm dãn phế quản. Tác động làm dãn phế quản của thuốc đồng vận beta-2 này bắt đầu trong vòng vài phút sau khi hít và kéo dài khoảng 4 giờ. Các ví dụ cho nhóm thuốc này là albuterol (Ventolin, Proventil), metaproterenol (Alupent), pirbuterol acetate (Maxair) và terbutaline sulfate (Brethaire).

Các thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài đã được bào chế với thời gian tác dụng liên tục trong 12 giờ. Các thuốc dạng hít này được sử dụng 2 lần một ngày. Ví dụ cho nhóm thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài này là salmeterol xinafoate (Serevent). Các thuốc nhóm này thường không được sử dụng cho các cơn hen cấp tính và chúng có một số tác dụng phụ như lo lắng, rung, hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, hạ kali máu.

Do các thuốc đồng vận beta-2 có thể làm dãn phế quản trong khi các thuốc chẹn thụ thể beta có thể làm suy giảm sự dãn cơ ở phế quản thông qua thụ thể beta-2 và có thể làm co thắt phế quản và tình trạng hen phế quản nặng nề hơn. Do đó, nhóm thuốc chẹn beta như các thuốc điều trị cao huyết áp propanolol (Inderal) và atenolol (Tenormin) nên tránh dùng cho bệnh nhân
hen phế quản.

Các thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic) tác động vào loại dây thần kinh khác so với nhóm thuốc đồng vận beta-2 để đạt được hiệu quả dãn phế quản. Hai nhóm thuốc dãn phế quản dạng hít khi được sử dụng cùng nhau có thể cho hiệu quả dãn phế quản mạnh hơn. Thuốc nhóm này thường được sử dụng là ipratropium bromide (Atrovent). Ipratropium có thời gian bắt đầu tác dụng lâu hơn nhóm đồng vận beta-2, với đỉnh tác dụng xuất hiện vào khoảng 2 giờ sau khi sử dụng và kéo dài 6 giờ. Nhóm thuốc kháng cholinergic này có thể hữu ích cho những bệnh nhân bị khí phế thủng.

Khi các triệu chứng của
bệnh hen phế quảnkhó kiểm soát bằng thuốc đồng vận beta-2 thì corticosteroids (Cortisone) thường được thêm vào. Corticosteroid có thể cải thiện chức năng phổi và làm giảm hiện tượng tắc nghẽn của phế quản. Các thuốc nhóm này bao gồm beclomethasone dipropionate (Beclovent, Beconase, Vancenase, Vanceril), triamcinolone acetonide (Azmacort) và flunisolide (Aerobid). Liều lý tưởng cho các thuốc corticosteroid này chưa rõ. Các tác dụng phụ của thuốc corticosteroid dạng hít bao gồm khàn tiếng, mất giọng, nhiễm nấm ở vùng miệng. Việc sử dụng sớm các corticosteroid dạng hít có thể giúp ngăn chặn những tổn thương không hồi phục của phế quản.

Cromolyn sodium (Intal) ngăn chặn sự phóng thích các hóa chất trung gian ở phổi như histamine, chất mà có thể gây ra cơn hen. Chính xác là cromolyn tác động như thế nào trong việc ngăn ngừa hen phế quản cần được nghiên cứu thêm. Cromolyn không phải là corticosteroid và không có tác dụng phụ đáng kể. Cromolyn là thuốc có ích trong việc ngăn ngừa
bệnh hen phế quảnnhưng lại có tác dụng hạn chế một khi cơnhen phế quảncấp tính khởi phát. Cromolyn có thể giúp ngăn ngừa cơn hen phế quản bị kích thích bởi tập thể dục, không khí lạnh, các tác nhân dị ứng như lông mèo. Cromolyn có thể được sử dụng ở trẻ em cũng như người lớn.

Theophylline (Theodur, Theoair, Slo-bid, Uniphyl, Theo-24), aminophylline là những ví dụ của nhóm thuốc methylxanthines. Methylxanthines có thể được sử dụng bằng đường uống và tiêm tĩnh mạch. Trước khi các thuốc dạng hít trở nên phổ biến thì methylxanthines chính là "trụ cột" trong điều trị hen phế quản. Chất caffeine có trong cafe thông thường và các loại nước giải khát cũng là một thuốc methylxanthine. Theophylline làm dãn cơ phế quản và ngăn ngừa các tế bào lót bên trong lòng phế quản (tế bào mast) phóng thích ra các hóa chất trung gian như histamine mà có thể gây ra cơn hen phế quản. Theophylline có thể hoạt động như một thuốc lợi tiểu nhẹ và làm gia tăng sự tiểu tiện. Đối với hen phế quản khó kiểm soát thì methylxanthines vẫn còn đóng một vai trò quan trọng. Liều lượng sử dụng theophylline hay aminophylline được theo dõi chặt chẽ. Nếu sử dụng liều quá mức có thể gây buồn nôn, nôn, rối loạn nhịp tim và thậm chí co giật. Trong một số trường hợp như suy tim hoặc xơ gan thì liều lượng của methylxanthines thường thấp để tránh nồng độ của nó tăng cao trong máu. Sự tương tác với các thuốc khác như cimetidine (Tagamet), thuốc chẹn kênh canxi (Procardia), quinolones (Cipro), allopurinol (Xyloprim) có thể cũng ảnh hưởng đến nồng độ của thuốc trong máu.



Thuốc corticosteroids đường uống có thể được sử dụng ở những bệnh nhân bị
hen phế quản nặng không đáp ứng điều trị với các thuốc khác. Tuy nhiên, corticosteroids liều cao và sử dụng kéo dài có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng như loãng xương, gãy xương, tiểu đường (đái tháo đường), cao huyết áp, mỏng da và dễ bị bầm tím, mất ngủ, thay đổi cảm xúc và tăng cân.

Các thuốc long đờm giúp làm loãng đờm trong đường hô hấp, và từ đó làm cho nó dễ bị tống ra ngoài khi ho. Muối KI (potassium iodide) không được sử dụng phổ biến vì có thể gây nên mụn, tăng tiết nước bọt, phát ban, các vấn đề tuyến giáp. Guaifenesin (Entex, Humibid) có thể gia tăng sự sản xuất các chất dịch giúp làm loãng đờm, nhưng cũng có thể là chất kích thích đối với một số người.

Ngoài việc sử dụng các thuốc dãn phế quản cho những bệnh nhân bị
hen phế quản do dị ứng thì việc tránh tiếp xúc với những tác nhân dị ứng hoặc các chất kích thích khác cũng rất quan trọng. Đối với những bệnh nhân không thể tránh tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc không thể được kiểm soát bằng thuốc thì việc tiêm phòng dị ứng cần được xem xét. Lợi ích của việc tiêm phòng dị ứng (khử mẫn cảm: desensitization) để phòng ngừahen phế quảnvẫn chưa được xác nhận rõ ràng. Một số bác sĩ vẫn còn e ngại về nguy cơ sốc phản vệ có thể xuất hiện với tỷ lệ 1/2.000.000. Tiêm phòng dị ứng mang lại lợi ích nhiều nhất ở trẻ em bị dị ứng với bụi trong nhà. Phương pháp này cũng có lợi đối với các loại dị ứng với phấn hoa và lông thú.

Ở một số bệnh nhân
hen phế quảnthì việc tránh sử dụng thuốc aspirin hay các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) cũng rất quan trọng. Đây là những thuốc thường được sử dụng để điều trị viêm khớp. Ở một số bệnh nhân khác thì việc điều trị bệnh lý hồi lưu (trào ngược) dạ dày - thực quản (GERD) cũng có thể giúp ngăn ngừa sự kích thích ở đường hô hấp. Các biện pháp để ngăn ngừa trào ngược vào thực quản là dùng thuốc, giảm cân, thay đổi chế độ ăn, bỏ thuốc lá, cafe và rượu. Ví dụ các thuốc được sử dụng để làm giảm tình trạng này bao gồm omeprazole (Prilosec) và ranitidine (Zantac). Bệnh nhân hen với bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản nặng có thể gây ảnh hưởng đến phổi và cần được phẩu thuật để củng cố cơ thắt thực quản, và từ đó giúp ngăn ngừa hiện tượng trào ngược acid từ dạ dày vào thực quản.

Theo Đông y

Hen Phế Quản theo đông y thuộc chứng Háo Suyễn - Háo Rỗng, tức là khí không được liễm nạp về thận, tỳ dương hư yếu thủy thấp ứ đọng sinh ra đờm. Trong cổ họng phát ra tiếng gọi là háo (hen) thở hít gấp gáp, khí đưa lên nhiều mà đưa xuống ít gọi là (suyễn).

Nguyên nhân gây bệnh hen do ngoại cảm phải ngoại tà bên ngoài, ăn uống tình chí thất thường, làm việc quá sức. Về tạng phủ, hen phế Quản liên quan trực tiếp tới 3 Tạng Tỳ - Phế - Thận, do 3 tạng này suy yếu và không được điều hòa gây nên, cụ thể:
- Tạng Phế: Phế có công năng chủ xuất nhập khí. Phế rối loạn làm khí xuất nhập rối loạn gây nên  khó thở. Cho nên trong bệnh hen phế quản, triệu chứng điển hình dễ thấy là cơn khó thở, khó thở ra, khó thở có chu kỳ, cơn khó thở bùng phát khi gặp các yếu tố kích thích như gió, ẩm, lạnh, bụi, mùi lạ, căng thẳng, mệt nhọc...
- Tạng Tỳ: Có chức năng vận hóa, chuyển biến hóa thức ăn. Khi lo nghĩ quá nhiều làm rối loạn công năng của tỳ. Chức năng chuyển hóa thức ăn của Tỳ rối loạn sẽ sinh đờm. Đờm dừng ở phế sẽ làm tắc nghẽn gây khó thở.
- Tạng Thận: Chủ nạp khí. Công năng thận rối loạn cơ thể yếu từ lúc mới sinh (gọi là tiên thiên bất túc). Thận không nạp khí nên khí ngược lên gây khó thở

Nguyên tắc điều trị hen theo Đông y

Mục đích của điều trị thuốc Đông y là điều trị toàn diện và mang tính tổng thể cao, đem lại sự cân bằng cho toàn thân, tăng sức đề kháng của cơ thể, đồng thời quan tâm đến bài trừ nguyên nhân bệnh, vì thế hen phế quản mới khỏi dứt điểm được.

Thuốc Đông y thường có tác dụng tán hàn, giáng khí, tiêu đờm, trừ thấp, bổ hư. Thuốc nâng cao chức năng các Tạng Tỳ - Phế - Thận bị suy yếu và điều hòa hoạt động giữa các Tạng.

Trong điều trị bệnh hen phế quản bằng thuốc Đông y không chỉ là làm giảm triệu chứng, đó còn là kết quả quá trình cân bằng giữa các tạng phủ, nâng cao sức đề kháng, phòng chống tái phát.

Một số bài thuốc đông y cổ phương hiện nay có hiệu quả cao trong điều trị hen là: “Nhị trần thang hợp tam tử thang gia giảm”, “Tiểu thanh long gia giảm”, “Tiền hồ thang gia vị”…


 Điều trị:

a. Theo Tây Y: 

Từ 1996 WHO đã đưa ra phác đồ
điều trị hen 4 bậc từ nhẹ (bậc 1) cho tới nặng (bậc 4), bao gồm điều trị cắt cơn (điều trị triệu chứng) và điều trị dự phòng (lâu dài) trong đó điều trị dự phòng là chính

Để điều trị cắt cơn thường dùng thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh. Đó là các thuốc kích thích bêta 2 giao cảm (có các dạng uống, tiêm, khí dung và xịt), thường dùng nhất hiện nay là Ventolin. 

- Để điều trị dự phòng: Đối với hen nhẹ kéo dài, trung bình và nặng (bật 2, 3, 4) thì bên cạnh thuốc giãn phế quản như trên cần dùng thêm các thuốc Corticoide hàng ngày, nhằm kháng viêm, chống co thắt và xuất tiết dịch nhờn (đờm). Các thuốc này cũng có dạng uống, tiêm, khí dung và xịt. 

Hiện nay, phác đồ điều trị hiệu quả nhất được hướng dẫn áp dụng phổ biến toàn cầu là phối hợp Salmeterol với Fluticason ( còn gọi là Seretide),dùng cho bệnh nhân xịt hàng ngày,để ngăn không cho lên cơn quá phát, nguy hiểm tới tính mạng ; thuốc giúp cải thiện triệu chứng, cải thiện chức năng phổi, giảm tần suất các đợt cấp và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân. 

Vì các thuốc này có phản ứng phụ ghê gớm nên phải điều trị theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ, không được tự ý mua dùng. 

Cũng đề phòng một sai lầm nghiêm trọng là lạm dụng các thuốc Corticoide, nhiều bệnh nhân hen suyễn điều trị nhiều nơi không khỏi,tìm tới các phòng mạch tư, một số ít bác sĩ vì lợi nhuận đã dùng Corticoide liều cao, thậm chí dùng cả những thuốc hiện nay đã không được khuyên dùng như Kenacort (K-cort) tiêm cho bệnh nhân, chỉ cần một mũi, cơn hen cắt ngay, một vài tháng sau mới tái phát. Bệnh nhân không hiểu tưởng đây là “thần dược” có ngờ đâu thuốc có nhiều tác dụng phụ ngoài ý muốn, sẽ gây ra hiệu quả hết sức đáng tiếc là làm cho bệnh nhân suy thận, mục xương, mặt béo phì, tăng trọng nhanh, dùng nhiều sẽ bị còi xương và teo da cơ vĩnh viễn. Bệnh nhân bảo khi tiêm thuốc này, bác sĩ thường xé nhãn, hoặc dấu không cho biết thuốc gì, chỉ biết khi tiêm vào thì đi tiểu liên tục, không cầm được, ăn ngủ ngon,mặt căng phồng, má đỏ ửng; hiện tượng này được goi là hội chứng mặt trăng tròn hay hội chứng mặt búp bê .
Một điều cũng cần hiểu rõ trong điều trị hen suyễn là tổ chức y tế thế giới( WHO)đã chỉ rõ: Cho tới nay các phương pháp điều trị của Tây y chỉ nhằm kiểm soát và cắt cơn chứ không chữa khỏi hen suyễn được, vì thế khi thấy bệnh nhân hen nặng lên, xịt Seretide không còn tác dụng nữa thì cần nhanh chóng đưa bệnh nhân tới Viện để cấp cứu, nếu còn chần chừ thì có thể nguy hiểm tới tính mạng của bệnh nhân. Từ xa xưa trong sách dạy Yoga đã ghi rõ rằng: “với những người bình thường có thể nhịn ăn uống hàng tuần nhưng không thể nhịn thở nổi hai phút”, vì thế nếu ta không khẩn trương thì đờm sẽ rược lên,làm cho bệnh nhân nghẹt thờ mà chết. Người Pháp nói bệnh nhân hen chết là chết vì nghẹt thở, quả không sai !

Có lần GS Nguyễn Năng An, Chủ tịch hội Hen và Dị ứng Việt Nam cũng trăn trở: “Còn rất nhiều bác sĩ đa khoa tuyến cơ sở không nắm được rằng phương pháp điều trị hen suyễn của Tây y hiện nay mới chỉ là kiểm soát và cắt cơn chứ không thể chữa khỏi được. Đó là lý do khiến nhiều bệnh nhân tuyến dưới phải cấp cứu trong tình trạng nguy kịch. Điều này không chỉ đe dọa tính mạng bệnh nhân mà còn làm tăng chi phí điều trị”.
Chi phí để điều trị hen suyễn khá nặng nề, bằng chi phí điều trị HIV và lao cộng lại.


b. Theo Đông Y: 


Đông y coi
viêm phế quản thể hen, hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đều thuộc bệnh “háo suyễn”. Và cách điều trị đều chung một nguyên tắc. Đông y cho rằng chứng hen suyễn phát sinh do 3 nguyên nhân: 

- Ngoại cảm lục dâm. 

- Nội thương ẩm thực. 

- Tỳ, phế, thận hư nhược. 

Khi bệnh nhân bị bệnh là do Tỳ, phế, thận hư nhược (hay suy giảm chức năng) nên sức đề kháng của cơ thể giảm xuống, khi đó gặp tác dụng bất lợi của môi trường, chẳng hạn trời lạnh xuống, khí đạo sẽ bị viêm, đờm sẽ sinh ra gây nên hen suyễn. 

Để điều hen suyễn Đông y cho rằng phải phục hồi chức năng nội tạng mà chủ yếu là Tỳ, Phế, Thận nhờ đó sức đề kháng của cơ thể tăng lên, các kháng thể tự sinh ra, ức chế các virus, tiêu viêm, khí quản và phế quản trở lại bình thường, đờm được tiêu trừ, hen không còn nữa. 

Như vậy nguyên tắc chung điều trị viêm phế quản,
bệnh hen phế quản, phổi tắc nghẽn ở đây là phò chính, khu tà.Sách Nội Kinh đã chỉ rõ : “tà chi sở tấu, chính khí bất an”. 

Sau khi cắt cơn hen, tiếp tục điều trị “phò chính", làm cho cơ thể càng khỏe lên, sức đề kháng tăng cao, sau đó dù cho môi trường bất lợi thì hen cũng không thể xảy ra được. Một vấn đề đặt ra là tại sao Tây Y lại không chữa dứt điểm được hen suyễn, để tái đi tái lại? Ta hãy đọc những lời của BOKUSO TERASHI , một giáo sư Nhật Bản am hiểu sâu sắc cả Tây y lẫn Đông y, khi so sánh 2 nền y học này như sau: “Tây y có hai thế mạnh là cận lâm sàng và ngoại khoa nhưng lại không phục hồi được chức năng nội tạng và kém trong chẩn đoán sớm, còn Đông y có 2 thế mạnh là phục hồi được chức năng nội tạng và chẩn đoán sớm nhưng lại không chỉ ra được định lượng chính xác về các thông số bệnh và không mạnh trong cấp cứu”. Thật là một nhận xét tuyệt với khó có nhận xét nào hay và chính xác hơn thế được ! 

Về
bệnh hen phế quản, ông viết: Hen không chỉ là vấn đề ở đường hô hấp, nó là bệnh của toàn thân mà những biểu hiện tập trung ở đường hô hấp, đặc trưng bởi sự co thắt phế quản và sự tăng tiết chất nhầy. Mục đích của điều trị Đông y là điều trị toàn diện, đem lại sự cân bằng cho toàn thân, tăng sức đề kháng của cơ thể, đồng thời quan tâm đến bài trừ nguyên nhân bệnh, vì thế hen mới khỏi dứt điểm được. Còn nếu điều trị theo Tây y, dùng thuốc giãn phế quản và các Steroide thì có tác dụng làm giảm nhẹ nhanh các triệu chứng (cắt cơn hen) nhưng không loại bỏ được căn nguyên bệnh, vì thế mà bệnh cứ tái đi tái lại làm cho các bệnh nhân hen suyễn phải chung sống suốt đời với bệnh . 


Vậy là ta đã rõ, cùng một bệnh hen suyễn nhưng 2 cách chữa khác nhau: Tây y chữa vào triệu chứng còn Đông y và các phương pháp chữa không dùng thuốc thì chữa vào nguyên nhân. Nhiều người bị hen, chữa nhiều nơi không khỏi, sau được chúng tôi chữa bằng Đông y và không dùng thuốc, kết quả thật mỹ mãn, đã khỏi hàng chục năm nay chưa thấy bệnh quay lại. 
Cũng nhờ chữa vào tận gốc như vậy nên Đông y có thể chữa khỏi cả những ca
bệnh hen suyễn có thâm niên năm sáu chục năm, đã được chữa bằng nhiều loại thuốc cả ở trong nước và nước ngoài gửi về.

Một điều thật thú vị và đáng quan tâm là sau khi được chữa khỏi hen bằng Đông y hoặc không dùng thuốc thì các cháu nhỏ lớn nhanh như thổi, da dẻ hồng hào, ăn ngon, ngủ tốt, học hành tiến bộ hẳn lên. Nếu người thân của bạn bị
bệnh hen phế quản, điều trị lâu nay không dứt điểm bạn hãy khuyên chuyển sang điều trị bằng Đông y và không dùng thuốc xem, tin rằng người thân của bạn sẽ thu được kết quả mãn ý.






Bệnh hen suyễn ở trẻ em
Thức ăn cho người bị bệnh hen suyễn
Phương pháp chữa bệnh hen suyễn cực hiệu quả
Cách chữa bệnh hen suyễn ở trẻ em
Bệnh suyễn nên ăn gì?
Bài thuốc dân gian chữa hen phế quản



(st)