Nguyên nhân của bệnh loạn thì và phương pháp luyện mắt hiệu quả. Loạn thị! Loạn thị làm mờ tầm nhìn ở mọi khoảng cách. Loạn thị thường xuất hiện lúc mới sinh và có thể xảy ra kết hợp với cận thị hoặc viễn thị.
Định nghĩa của loạn thị:
Một hệ quang học loạn thị cho ảnh của một điểm không phải là một điểm, mà là hai đường thẳng gọi là tiêu tuyến. Khoảng cách của hai tiêu tuyến xác định độ loạn thị. Tiêu tuyến trước tạo bởi kinh tuyến
có triết quang cao nhất và tiêu tuyến sau bởi kinh tuyến có triết quang thấp nhất. Mỗi tiêu tuyến đều thẳng góc với kinh tuyến gốc. Về lý thuyết, không có mắt nào là hoàn toàn không loạn thị, nhưng trong thực tế người ta gọi là loạn thị khi có rối loạn về chức năng thị giác kiểu loạn thị mà bệnh nhân nhận thức được.
|
|
Loạn thị là một bệnh không hoàn hảo và dễ dàng điều trị, được đặc trưng ở các độ cong của mắt, điều kiện có thể gây mờ mắt.
Loạn thị xảy ra khi mặt trước của mắt (giác mạc) hoặc ống kính bên trong mắt, có một độ cong bề mặt hơi khác nhau theo một hướng khác. Thay vì ngay thẳng và mịn trong tất cả các hướng, bề mặt có thể có một số khu vực cong hoặc dốc hơn.
Loạn thị làm mờ tầm nhìn ở mọi khoảng cách. Loạn thị thường xuất hiện lúc mới sinh và có thể xảy ra kết hợp với cận thị hoặc viễn thị. Thường thì nó không thể hiện đủ để yêu cầu hành động khắc phục. Khi nó được khắc phục, tùy chọn điều trị khắc phục bao gồm dùng kính và phẫu thuật.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh loạn thị có thể bao gồm:
- Bóp méo trong các phần của lĩnh vực thị giác.
- Mờ mắt.
- Mỏi mắt.
- Nhức đầu.
Nếu làm mất tầm nhìn từ thưởng thức hoạt động hoặc cản trở khả năng để thực hiện công việc hàng ngày, hãy gặp bác sĩ mắt. Bác sĩ mắt có thể xác định mức độ loạn thị và tư vấn các lựa chọn để có tầm nhìn đúng.
Nếu là một người lớn khỏe mạnh lớn hơn 40, mắt được kiểm tra mỗi 2 - 4 năm cho đến khi 65 tuổi. Sau khi 65 tuổi, kiểm tra mỗi 1 - 2 năm đối với các dấu hiệu của bệnh về mắt hay các vấn đề. Nếu có vấn đề về mắt, như loạn thị, có thể cần phải có kiểm tra mắt thường xuyên hơn. Nếu đang có nguy cơ bị bệnh mắt nhất định, chẳng hạn như tăng nhãn áp hoặc bị tiểu đường, kiểm tra với bác sĩ để xem bao lâu thì cần phải kiểm tra mắt.
Mắt có hai phần tập trung hình ảnh - giác mạc và ống kính. Trong một hình mắt hoàn hảo, tập trung vào những yếu tố này có một đường cong như bề mặt của một quả bóng mịn. Giác mạc hoặc ống kính với một bề mặt cong cong (khúc xạ) tất cả ánh sáng đến cùng một cách và tạo ra một hình ảnh rõ ràng vì sự trở lại của võng mạc mắt.
Tuy nhiên, nếu giác mạc hoặc ống kính không đồng đều và uốn cong nhẹ, các tia sáng khúc xạ không đúng, gây ra một lỗi khúc xạ. Loạn thị là một loại lỗi khúc xạ. Trong loạn thị, giác mạc hoặc ống kính cong dốc hơn theo một hướng khác. Khi giác mạc có hình dạng méo mó sẽ có loạn thị giác. Khi ống kính bị bóp méo, có loạn thị thể thủy tinh. Loạn thị có thể gây mờ mắt. Mờ mắt có thể xảy ra nhiều hơn trong một hướng hoặc là theo chiều ngang, chiều dọc hoặc theo đường chéo.
Loạn thị có thể xảy ra kết hợp với các lỗi khác khúc xạ, trong đó bao gồm:
- Cận thị. Điều này xảy ra khi giác mạc cong quá nhiều hoặc mắt dài hơn bình thường. Thay vì tập trung chính xác vào võng mạc, ánh sáng tập trung ở phía trước của võng mạc, kết quả là xuất hiện nhìn mờ cho các đối tượng ở xa.
- Viễn thị. Điều này xảy ra khi giác mạc là cong quá ít hoặc mắt ngắn hơn bình thường. Hiệu ứng này là đối diện của cận thị. Khi mắt đang ở trong một trạng thái thoải mái, ánh sáng tập trung phía sau mắt, làm cho các đối tượng ở gần đó mờ.
Trong hầu hết trường hợp, loạn thị là lúc mới sinh. Đôi khi, loạn thị phát triển sau khi một chấn thương mắt, bệnh tật hoặc phẫu thuật. Loạn thị không gây ra hoặc làm nặng hơn bằng cách đọc trong ánh sáng kém, ngồi quá gần với truyền hình hoặc nheo mắt.
1/ Loạn thị do giác mạc:
Loạn thị hầu hết là do giác mạc. Giác mạc ở đây không còn là một chỏm cầu với tất cả mọi kinh tuyến đều có cùng một bán kính cong mà nó thay đổi tùy theo kinh tuyến.
Thực ra giác mạc bình thường cũng không phải hoàn toàn là một phần của hình cầu. Kinh tuyến ngang có bán kính cong là 7,8 mm và dọc là 7,7mm. Như vậy là có loạn thị giác mạc sinh lý. Độ loạn thị này được bù bằng độ loạn thị ngược lại của thể thủy tinh, nên có sự cân bằng khúc xạ và mắt được chính thị hóa.
Người ta chia ra loạn thị đều và không đều.
1.1 Loạn thị đều:
Trong loạn thị đều, các kinh tuyến thay đổi dần dần từ kinh tuyến có triết quang cao nhất đến kinh tuyến có triết quang thấp nhất.
Những dấu hiệu thường thấy khiến người bệnh đi khám là:
- Song thị: hay gặp trong loạn thị nghịch hay loạn thị mất điều chỉnh. Loạn thị là nguyên nhân hay gặp nhất đối với song thị một mắt. Cần phải khám kỹ khi có hiện tượng trên.
- Quáng mắt: ánh sáng mặt trời làm mắt khó chịu là dấu hiệu khá điển hình và cần phải tìm xem có loạn thị không. Tất cả những rối loạn trên đều được giải thích theo kiểu nhìn của người loạn thị. Thật vậy, họ nhìn khá rõ những ảnh nằm trên tiêu tuyến gần võng mạc nhất. Đặt trước họ một mặt đồng hồ Parent, họ sẽ thấy rõ đường dọc hay các đường ngang.
Các kiểu loạn thị với dạng loạn thị đều:
a. Loạn thị cận:
- Loạn thị cận đơn thuận. Tiêu tuyến trước nằm ngang trước võng mạc, tiêu tuyến sau đứng dọc trên võng mạc. Thị lực không điều chỉnh cũng vẫn khá tốt.
Cần phải cảnh giác để không nhầm loại loạn thị này với loạn thị viễn có dạng trên do điều tiết.
Ở trẻ em, nhất thiết phải khám kỹ sau khi đã nhỏ atropin để làm liệt điều tiết.
Điều chỉnh loạn thị cận đơn thuận khá đơn giản bằng một kính trụ phân kỳ trục nằm ngang.
- Loạn thị cận đơn nghịch, tiêu tuyến dọc ở trước võng mạc. Điều chỉnh dễ dàng bằng một kính trụ phân kỳ trục đứng dọc.
- Loạn thị cận đơn chéo: làm thị lực giảm rất nhiều và thường gây mỏi mắt. Điều chỉnh bằng kính trụ phân kỳ trục chéo.
- Loạn thị cận kép, thuận, nghịch, chéo. Phải điều chỉnh kép: Điều chỉnh cận thị bằng cách đưa một tiêu tuyến vào đúng trên võng mạc, rồi đưa tiêu tuyến thứ hai về nằm trên tiêu tuyến thứ nhất. Điều chỉnh đôi khi khá tinh tế, người ta thường có xu hướng điều chỉnh quá mức tật cận thị.
b. Loạn thị viễn:
- Loạn thị viễn đơn thuận. Tiêu tuyến dọc ở sau và tiêu tuyến ngang nằm trên võng mạc. Bệnh nhân có xu hướng là điều tiết để nhìn rõ, như vậy là tiêu tuyến sau được đưa về võng mạc, thị lực được tăng lên. Tiêu tuyến ngang ra trước võng mạc gây nên loạn thị cận giả. Điều chỉnh bằng kính trụ hội tụ trục dọc.
- Loạn thị viễn đơn nghịch. Tiêu tuyến dọc nằm trên võng mạc, tiêu tuyến ngang ở sau. Điều chỉnh bằng kính trụ hội tụ trục ngang.
- Loạn thị viễn đơn chéo: điều chỉnh bằng kính trụ hội tụ trục chéo.
- Loạn thị viễn kép thuận hay nghịch: cả hai tiêu tuyến đều ở sau võng mạc, người trẻ sẽ điều tiết để đưa tiêu tuyến dọc nằm trên võng mạc. Nếu loạn thị viễn kép thuận tiêu tuyến dọc ở sau và đưa về nằm trên võng mạc, thì tiêu tuyến trước ngang phải ở trước võng mạc, như vậy sẽ gây nên loạn thị cận giả. Nếu loạn thị viễn nghịch tiêu tuyến trước dọc được đưa về nằm trên võng mạc, còn tiêu tuyến sau ngang vẫn nằm sau võng mạc.
Điều chỉnh thường gồm một kính trụ hội tụ và kính cầu hội tụ.
c. Loạn thị hỗn hợp:
Có một tiêu tuyến ở trước võng mạc, còn tiêu tuyến kia ở sau. Nếu loạn thị thuận, tiêu tuyến trước ngang, tiêu tuyến sau dọc. Người trẻ điều tiết để đưa tiêu tuyến dọc về trên võng mạc. Như vậy giống như loạn thị cận đơn thuận.
Nếu loạn thị nghịch tiêu tuyến trước dọc và bệnh nhân không thể làm di chuyển nó được; tiêu tuyến sau ngang. Điều chỉnh gồm một kính trụ và một kính cầu có dấu ngược nhau. Sự phối hợp có thể hoặc là một kính trụ phân kỳ và một kính cầu hội tụ, hoặc ngược lại.
Đo loạn thị:
Người ta sử dụng máy Javal cho phép như chúng ta đã biết xem nó chồng lên nhau mấy bậc thang, chứng tỏ có sự khác nhau của độ cong các đường kinh tuyến chính. Nó không cho biết là loạn thị cận hay viễn. Cần phải nhắc lại rằng mắt chính thị cũng có loạn thị giác mạc là 3/4D; một sự chồng lên nhau 3/4 bậc thang là mắt bình thường.
Soi bóng đồng tử cho phép đánh giá chẩn đoán kiểu cận hay viễn và độ loạn thị. Tuy nhiên, soi bóng đồng tử chỉ ước lượng trục loạn thị một cách tương đối.
Trong mọi trường hợp cần phải hết sức lưu ý đến yếu tố điều tiết. Soi bóng đồng tử thật chu đáo trước khi thử kính là rất cần thiết. Như vậy sẽ tránh được nhiều sai sót.
Điều chỉnh loạn thị:
Điều chỉnh loạn thị, nhất là loạn thị kép là một trong những vấn đề khó nhất của tật khúc xạ.
Điều chỉnh với bảng thị lực. Dựa vào soi bóng đồng tử và máy Javal, người ta cho kính điều chỉnh rồi lấy thị lực. Sau đó tăng hoặc giảm số kính trụ, rồi kính cầu xem thị lực có khá hơn không. Kiểm tra lại trục của kính bằng cách di chuyển từ từ cứ 50 một về hai phía của trục, như vậy cho đến khi thị lực tăng lên.
Phương pháp này tương đối đơn giản cho phép đạt tới một sự điều chỉnh hoàn hảo trong đa số trường hợp. Tuy vậy có những trường hợp thật khó để tìm một cách chính xác trục của kính nếu chỉ căn cứ vào bảng thị lực. Bởi vậy người ta dùng hai phương pháp sau đây: sử dụng đồng hồ Parent hay Green và kính trụ chéo Jackson.
Đồng hồ Parent hay Green cho bệnh nhân thấy những kinh tuyến với những hướng khác nhau. Người loạn thị sẽ nhìn các đường, có đường rõ, có đường mờ. Sau khi được điều chỉnh tốt sẽ nhìn các đường rõ như nhau.
Kính trụ chéo Jackson là một dụng cụ có độ chính xác cao. Nó gồm hai kính trụ +0.25 và -0.25D hoặc +0.50D và -0.50D đặt thẳng góc với nhau. Hai gạch trắng và đỏ đánh dấu loại kính, số kính và trục kính. Thí dụ ta đặt kính trụ +0.25 thẳng đứng, tác dụng của hệ thống sẽ là +0.25 từ phải sang trái và -0.25 từ trên xuống dưới. Nó có cùng công suất như một hệ kính ghép (900 +0.50) -0.25 và ở vị trí ngược lại nó sẽ là (900-0.50)+0.25.
Khi đặt một hệ thống như vậy trước mắt chính thị hay mắt loạn thị đã được điều chỉnh hoàn toàn thì dù ở vị trí này hay vị trí khác, nó sẽ gây nên loạn thị hỗn hợp, một tiêu tuyến ở trước còn tiêu tuyến kia ở sau võng mạc, thị lực giảm.
Nếu loạn thị điều chỉnh chưa hoàn toàn thì ở một trong hai vị trí kính trụ sẽ làm cho tiêu tuyến dọc lại gần võng mạc và thị lực sẽ tăng, nếu ra xa thị lực sẽ giảm.
Kết quả điều chỉnh loạn thị:
Điều chỉnh loạn thị thường khó. Cần biết một số điểm sau đây: không thể đạt được một thị lực bình thường ở những bệnh nhân bị loạn thị nặng, nói chung là 6 đến 7/10.
Sự không tương xứng giữa kết quả của việc khám xét khách quan và sự điều chỉnh chủ quan không phải là ít gặp. Một số bệnh nhân bị loạn thị tới 2-3D (với máy Javal) nhưng thị lực vẫn là 10/10 và không thấy có gì khó chịu. Được vậy là nhờ điều tiết đã đưa tiêu tuyến dọc về trên võng mạc. Nhưng đến khoảng 40 tuổi việc tự điều chỉnh này sẽ trở nên rất khó khăn vì lực điều tiết giảm sút đi nhiều.
Ngược lại, một số bệnh nhân không bị loạn thị giác mạc, nhưng đeo kính trụ, thị lực cũng tăng, đó là có loạn thị do thể thủy tinh.
Sau hết là sự điều chỉnh kính ở một số bệnh nhân có thể thấy khác nhiều so với sự khám xét bằng máy Javal và soi bóng đồng tử. Như vậy là có thể có sự không tương ứng giữa trục lý thuyết và trục thực tế. Bởi vậy khi điều chỉnh kính trụ, chúng ta phải dò dẫm để đi đến kết quả thực tế tốt nhất.
2/ Loạn thị không đều:
Thường do hậu quả của một dị dạng giác mạc như giác mạc hình chóp, do sẹo sau khi ghép giác mạc. Trong mọi trường hợp, khám với máy Javal cho thấy hai tiêu tuyến không thể chồng lên nhau.
Điều chỉnh rất khó. Phương pháp tốt nhất là dùng kính có khe cho mắt cần điều chỉnh và bảo người bệnh tự tìm một vị trí bất kỳ của khe sao cho thị lực tốt nhất. Vị trí này tương ứng với trục của kính trụ cần đeo rồi dần dần từng bước xác định công suất và dấu của kính trụ.
Trong các loạn thị không đều, một loại đặc biệt hay gặp là giác mạc hình chóp. Ở giai đoạn đầu, chẩn đoán không phải dễ dàng, phải khám bằng đĩa Placido mới phát hiện được. Vào những giai đoạn sau, chẩn đoán khá dễ, loạn thị rất nặng, đỉnh giác mạc rất mỏng.
Điều chỉnh rất khó, nếu còn kín đáo ở cả hai mắt và không tiến triển: có thể cho đeo kính. Nếu nặng ở cả hai mắt hoặc một mắt thì cho đeo kính tiếp xúc. Kính tiếp xúc còn có tác dụng làm ngừng quá trình phát triển của loạn thị không đều.
Ngày nay người ta thường điều chỉnh giác mạc hình chóp bằng kính củng mạc.
Loạn thị không do giác mạc:
Rất quan trọng, có thể:
- Loạn thị do thể thủy tinh – lệch thể thủy tinh. Hiếm hơn nữa là loạn thị do độ cong của thể thủy tinh hay do chiết suất.
- Loạn thị do võng mạc. Trên những người cận thị nặng, cực sau của nhãn cầu, đáng lẽ nằm trên mặt phẳng trước sau, lại bị lệch sang một bên (phình nhãn cầu về phía sau)
Các xét nghiệm và chẩn đoán
Bác sĩ mắt có thể sử dụng những công cụ này trong việc kiểm tra mắt:
- Giác mạc kế. Dụng cụ này được lượng hóa và định hướng của loạn thị giác mạc bằng cách đo ánh sáng phản xạ từ bề mặt của giác mạc.
- Soi giác mạc (keratoscope) và ghi hình (videokeratoscope). Các thiết bị này được sử dụng để phát hiện và định lượng độ cong bề mặt giác mạc và sự hiện diện của loạn thị. Soi giác mạc sử dụng ánh sáng để quan sát vòng trên giác mạc. Quan sát thông qua keratoscope sự phản chiếu của ánh sáng từ giác mạc và kiểm tra hình dạng và khoảng cách của các vòng cung cấp thông tin về mức độ loạn thị.
Một keratoscope trang bị một máy ảnh video được gọi là một videokeratoscope. Videokeratoscope là dụng cụ phổ biến nhất được sử dụng để đo lường sự thay đổi độ cong bề mặt giác mạc, quá trình này gọi là ghi hình giác mạc.
Phương pháp điều trị và thuốc
Mục tiêu của điều trị loạn thị là điều chỉnh độ cong không đồng đều gây mờ tầm nhìn. Điều trị bao gồm đeo kính để hiệu chỉnh và trải qua phẫu thuật khúc xạ.
Đeo kính loạn thị xử lý khắc phục bằng cách chống lại độ cong của giác mạc. Các loại ống kính hiệu chỉnh là:
- Kính áp tròng. Kính áp tròng có thể sửa cả hai giác mạc và loạn thị thể thủy tinh. Nhiều loại kính áp tròng có sẵn - cứng, mềm, mở rộng, dùng một lần, cứng nhắc và hai tiêu điểm thấm khí. Hỏi bác sĩ mắt về ưu và nhược điểm của từng loại và có kính áp tròng có thể là tốt nhất. Kính áp tròng cũng được sử dụng trong một thủ tục gọi là orthokeratology hoặc Ortho - K. Trong orthokeratology, đeo kính áp tròng cứng nhắc trong vài giờ một ngày cho tới khi độ cong của mắt được cải thiện. Sau đó, đeo kính ít thường xuyên để duy trì hình dạng mới. Nếu không tiếp tục điều trị này, mắt trở về hình dạng cũ của mình.
- Kính đeo mắt. Một thay thế cho kính áp tròng là kính đeo mắt. Cũng giống như kính sát tròng, kính đeo mắt giúp bù đắp cho các hình dạng không đồng đều của mắt.
Phẫu thuật khúc xạ. Phương pháp này điều trị sửa chữa vấn đề loạn thị bằng cách tạo lại hình dáng bề mặt của mắt. Phương pháp phẫu thuật khúc xạ bao gồm:
- Phẫu thuật LASIK. Laser hỗ trợ keratomileusis tại chỗ (LASIK) là một thủ tục trong đó bác sĩ dùng một dụng cụ gọi là dao mổ giác mạc để thực hiện cắt mỏng tròn khớp nối vào giác mạc. Ngoài ra, cùng cắt giảm này có thể được thực hiện với một laser cắt đặc biệt để khắc hình dạng của giác mạc.
- Photorefractive keratectomy (PRK). Trong PRK, bác sĩ phẫu thuật loại bỏ các lớp ngoài bảo vệ của giác mạc trước khi sử dụng một laser excimer để thay đổi độ cong của giác mạc này.
- Laser hỗ trợ subepithelial keratomileusis (LASEK). Trong thủ tục này, một lớp mỏng hơn nhiều của giác mạc bị gập lại, làm cho mắt ít bị thiệt hại như một chấn thương xảy ra. LASEK có thể là một lựa chọn tốt hơn nếu có một giác mạc mỏng hoặc nếu đang có nguy cơ cao của một chấn thương mắt tại nơi làm việc hoặc từ chơi thể thao.
Radial keratotomy là một thủ tục đã được sử dụng trong quá khứ để sửa chữa loạn thị. Tuy nhiên, nó không còn thực hiện thường xuyên nữa.
Các bài tập mắt hiệu quả
1- Palming (thư giãn): nhắm mắt, úp 2 lòng bàn tay vào mắt, 10-15phút/lần, làm nhiều lần trong ngày càng tốt, con mình chỉ làm được 1 - 2 lần/ngày
2- Sưởi ánh nắng mặt trời cho mắt, đưng 10-15 phút dưới ánh nắng, nhắm mắt lại.
3- Tập mắt hàng ngày với bảng thị lực (mua 3 loậi bảng, hết khoang 200.000đ)
4- Đắp lần lượt khăn nưoc ấm và lạnh trong 10 phut
5- Dùng kính lỗ (pinhole glasses) khi nhìn xa (xem ti vi, nhìn bảng ở lóp).
6- Bỏ hoàn toàn kính cận.
Bài 1: Palming - Thư giãn mắt
- Nhắm mắt, úp 2 bàn tay vào mắt, lòng bàn tay trái che toàn bộ hốc mắt trái, lòng bàn tay phải che toàn bộ hốc mắt phải, 5 ngón tay trái để chéo 5 ngón tay phải – để chính giữa trán, tay trái để bên trong, tay phải để bên ngoài.
- Nghĩ đến 1 điều vui vẻ, thư giãn càng lâu càng tốt, ngày vài lần, mỗi lần 10-15 phút.
(Khi thư giãn, lúc đầu sẽ thấy những vệt sáng ảo, 1 lúc lâu sẽ thấy một màu tối đen, khi đó là đạt yêu cầu. Lúc bé ở trường, cũng có thể thỉnh thoảng làm như vậy trong vòng 1-2 phút cũng tốt).
Bài 11: Nguyên tắc 10-10-10 khi nhìn gần
Khi làm việc với cự ly gần (đọc sách, máy tính), cứ làm việc được khoảng 10 phút thì đưa mắt nhìn xa với khoảng cách ít nhất là 10 feet (khoảng 3m), trong vòng tối thiểu là 10 giây.
Bài 12: Bài tập với màu sắc (Color Light Treatment)
Màu đỏ, cam, vàng tác động lên bán cầu não trái và giúp tầm nhìn gần được rõ hơn.
Màu xanh nước biển, tím, tím nhạt tác động lên bán cầu não phải và giúp tầm nhìn xa được rõ hơn.
Màu xanh lá cây tác động và hợp nhất cả hai bán cầu não trái và phải và giúp cả tầm nhìn gần và xa được rõ hơn.
Vì vậy, tập nhìn vào các vật có màu xanh lá cây như cây cối là dễ dàng và tốt cho cả hai tầm nhìn.
Bài 13: Bài tập di chuyển mắt (Switching and shifting)
Bài tập này kết hợp 2 bài tập nhỏ đó là shifting (di chuyển theo hình thù đồ vật) và switching (nhìn ở các tầm nhìn khác nhau: gần – trung bình – xa):
- Switching có nghĩa là thay đổi hướng mắt nhìn từ 1 vật ở khoảng cách này sang 1 vật khác ở khoảng cách khác.
Ví dụ: thay đổi ánh mắt nhìn từ đồ vật trước mặt mình, sang đồ vật ở khoảng cách xa hơn, rồi sang 1 đồ vật khác ở khoảng cách xa nữa (ví dụ: nhìn 1 đồ vật ở khoảng cách dưới 5m, sau đó nhìn chuyển sang 1 đồ vật ở khoảng cách 10m, rồi nhìn sang hẳn 1 đồ vật khác ở khoảng cách >20m (nhìn trăng, sao chẳng hạn))
Mắt nhìn ở khoảng cách gần – rồi chuyển sang khoảng cách trung bình – rồi chuyển sang khoảng cách xa, làm ngược lại.
Lưu ý khi nhìn các vật phải để đúng tầm nhìn (central visual fixation) như bài tập trước mà mình hướng dẫn.
- Shifting: có nghĩa là di chuyển mắt theo hình thù của vật được nhìn, kiểu như là tô màu cái vật đó bằng mắt ý.
Trong quá trình làm đưa mắt nhìn một cách nhẹ nhàng, chớp mắt thường xuyên
Bài tập này hơi giống bài tập vẽ bằng mũi, nhưng lần này là di chuyển mắt, mắt mở, nhìn theo các vật, không nhắm.
Bài tập 14 (bài cuối cùng): Bài tập bằng bụng
Hít vào bằng mũi sao cho hơi thở vào bụng, bụng sẽ phồng lên (lưu ý bụng phồng lên do khí vào chứ không phải do mình cố tình làm cái bụng phồng lên).
Thở ra bằng mũi, thở ra dần dần cho hết khí trong bụng.
Việc chỉnh font chữ cho to lên khi dùng máy tính là đúng sách. Dưới đây là lời khuyên của các chuyên gia nước ngoài về việc tập làm quen với việc bỏ kính
NHỮNG MẸO NHỎ ĐỂ GIÚP THỊ LỰC TỐT HƠN MÀ KHÔNG CẦN ĐEO KÍNH
Mẹo thứ nhất
Cố gắng không đeo kiếng suốt ngày. Bạn nên nghĩ rằng mắt kính của bạn chỉ là công cụ mà bạn chỉ dùng đến khi cần thiết. Dán một miếng băng để luôn nhắc nhở bạn về diều này trước màn hình vi tính. Viết dòng nhắc nhở lên bookmark (dãy băng để đánh số trang) của bạn. Hãy tỉnh táo khi sử dụng cặp kính.
*Chắc rằng luôn giữ an toàn trong đầu bạn. Đừng bao giờ thực hiện một hành động có thể gây nguy hiểm cho chính mình và những người khác nếu không có kính
Mẹo thứ hai
Nếu bạn không thể nhìn rõ màn hình vi tính mà không có kính, hãy phóng to phong chữ của internet browser. Để làm được điều này, hãy giữ nút CTRL, đồng thời cuộn bánh xe nhỏ trên đầu chuột của bạn (cuộn lên hoặc xuống).
Mỗi lần cuộn về phía trước sẽ làm tăng kích cỡ phong chữ lên. Và để giảm kích cỡ phong chữ, tiếp tục giữ nút CTRL và cuộn về phía bạn
Mẹo thứ ba
Nếu bạn thích đọc sách, cố gắng lấy sách trong thư viện với những cỡ in lớn hơn. Điều này cho phép bạn đọc sách mà không cần kiếng.
Những việc nhỏ này nếu thực hiện lâu dài sẽ bảo vệ thị lực của bạn trong những năm sau này.
Nên nhớ rằng, những bước đầu tiên để giúp thị lực của bạn tốt hơn mà không dựa vào cặp kính. Chỉ sử dụng kính khi bạn cần đến chúng. Phóng to các phong chữ của màn hình vi tính và bỏ kính khi đang làm việc với máy tính. Và nếu bạn đọc nhiều sách, mua hoặc mượn sách từ thư viện với bản in lớn hơn
Những mẹo này là cách dễ dàng có hiệu quả để giúp bạn cải thiện thị lực một cách tự nhiên
(st)