Bệnh nhồi máu cơ tim ở người cao tuồi
Triệu chứng của bệnh nhồi máu cơ tim
Khi bất ngờ bị nhồi máu cơ tim, chỉ có một thời gian ngắn để tự cứu mình ai cũng nên đọc
Những dấu hiệu sớm cảnh báo nguy cơ nhồi máu cơ tim không thể coi thường
Nguyên nhân của bệnh nhồi máu cơ tim và cách phòng bệnh hiệu quả. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước thì các bệnh tim mạch ngày càng có xu hướng tăng, nguy hiểm nhất là bệnh nhồi máu cơ tim. Đây là tình trạng bệnh lý đe dọa nghiêm trọng đến tín mạng con người xảy ra do sự tắc nghẽn đột ngột mạch máu nuôi tim.
Nhồi máu cơ tim xảy ra đột ngột kéo dài hơn 20 phút, nếu không được cấp cứu kịp thời có thể dẫn đến tử vong với tỷ lệ rất cao và để lại nhiều biến chứng nguy hiểm, ảnh hướng lớn tới sức khỏe và khả năng lao động của người bệnh, gây tổn thất nặng nề về kinh tế đối với gia đình và xã hội.
Nhồi máu cơ tim dùng để chỉ hiện tượng hoại tử một phần của cơ tim do thiếu máu cục bộ xảy ra sau khi tắc nghẽn kéo dài trong lòng mạch vành nuôi dưỡng vùng đó.
Nguyên nhân gây bệnh nhồi máu cơ tim
- Xơ vữa động mạch vành là nguyên chủ yếu và thường gặp nhất. Các mảng xơ vữa hình thành làm giảm khẩu kính lòng mạch, cản trở sự lưu thông của máu và dần dần dẫn đến tắc mạch.
- Tắc động mạch do hình thành cục máu đông (huyết khối).
- Co thắt động mạch vành, bóc tách động mạch.
- Viêm động mạch vành do giang mai, bệnh Takayasu, hội chứng Kawasaki, viêm quanh nút động mạch, viêm cơ tim.
- Thiếu hoặc rối loạn yếu tố C và S là các yếu tố chống lại quá trình đông máu.
- Ngoài ra có thể gặp các nguyên nhân khác như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, tăng cholesterol máu, các bệnh tim bẩm sinh, stress… cũng dẫn đến nguy cơ nhồi máu cơ tim.
Nhóm nguyên nhân hay gặp:
Hình thành mảng xơ vữa là nguyên nhân hàng đầu gây nhồi máu cơ tim.
Những yếu tố thuận lợi làm nhồi máu cơ tim dễ xuất hiện (các bệnh có tác dụng làm cho chứng xơ cứng động mạch dễ xuẩt hiện):
Đau ngực dữ dội: Đây là triệu chứng thường gặp và điển hình nhất của bệnh nhồi máu cơ tim. Cơn đau ngực thường xuất hiện ở vị trí sau xương ức, có thể lan lên cằm, vai hoặc cánh tay trái. Đau kiểu nặng ngực, cảm giác như ai đó bóp nghẹt quả tim, có thể bắt đầu từ từ và chỉ kéo dài vài phút. Đau có tính chu kỳ và lặp lại, đau tăng khi cử động và gắng sức làm người bệnh không dám cử động mạnh.
Nguyên tắc chính của điều trị là đưa oxygen tới phần cơ tim đang bị tiêu hủy vì mạch nghẽn. |
|
|
|
Tỷ lệ mắc nhồi máu cơ tim cao nhất ở nam giới tuổi trên 40 (trung nhiên và cao tuổi). Tỷ lệ này ở nữ giới theo độ tuổi thấp hơn ở nam song cũng tăng lên gần tương đương ở độ tuổi 5 đến 10 năm sau mãn kinh. Gần một nửa các trường hợp là gặp ở độ tuổi dưới ngưỡng 60-65. Nhồi máu cơ tim gặp với tỷ lệ cao hơn đáng kể ở những người hút thuốc lá, béo phì, rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, đái tháo đường hoặc gia đình có người mắc bệnh tim mạch sớm trước tuổi 60. Không ít các trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra ngay cả ở người trẻ hoặc người không hề có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào.
Triệu chứng điển hình và thường gặp nhất của nhồi máu cơ tim là cơn đau thắt ngực với cảm giác đau như bị đè ép, bóp chặt ở giữa ngực, diễn ra trong khoảng 5-15 phút (kéo dài hơn hẳn so với cơn đau thắt ngực ổn định thông thường), thường không quá 1 giờ. Cơn đau có thể lan lên vai, cổ, hàm hoặc lan dọc theo cánh tay, đặc biệt là tay trái. Có thể có kèm theo các triệu chứng như vã mồ hôi, buồn nôn, chóng mặt hoặc khó thở. Nhiều trường hợp nhồi máu cơ tim lại biểu hiện như một tình trạng rối loạn tiêu hoá, hoặc chẳng hề có triệu chứng (nhồi máu cơ tim thầm lặng), hoặc lại hết sức đột ngột, biểu hiện bằng biến chứng rối loạn nhịp, ngừng tim hay đột tử...
Do tính chất thường gặp, nguy hiểm đến tính mạng và diễn biến nhanh chóng của bệnh, nên phương châm chủ đạo là tránh tối đa bỏ sót. Cần nghĩ tới nhồi máu cơ tim trước biểu hiện đau hoặc tức nặng ở ngực trái mà không cắt nghĩa được do nguyên nhân nào khác gây ra ở một người lớn tuổi, nhất là khi có các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Khi nghi ngờ, cần vào biện viện hoặc cơ sở chuyên khoa để theo dõi ít nhất 12-24 giờ nhằm loại trừ hoặc xác định chẩn đoán. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim dựa vào đặc điểm cơn đau thắt ngực, các biến đổi trên điện tâm đồ, các thay đổi về nồng độ men tim trong máu diễn ra trong quá trình theo dõi (phải làm điện tâm đồ hoặc định lượng men tim trong máu nhiều lần để phát hiện ra các thay đôti này, khoảng cách giữa các lần tối đa là 6 giờ). Chụp động mạch vành bằng thuốc cản quang có hình ảnh tắc một đoạn động mạch vành do huyết khối là biện pháp chẩn đoán chắc chắn. Đối với một số bệnh nhân có triệu chứng điển hình, nguy cơ biến chứng cao (sốc tim, suy tim nặng, rối loạn nhịp ...), nên chụp động mạch vành ngay để có chẩn đoán xác định và áp dụng các biện pháp điều trị kịp thời. Những bệnh nhân còn nghi ngờ có thể sử dụng một số biện pháp chẩn đoán khác như siêu âm tim, nghiệm pháp gắng sức, xạ hình tưới máu cơ tim... tùy từng trường hợp trước khi chụp động mạch vành.
Nặng nề nhất và không hiếm xảy ra, đó là chết. Những biến chứng tiềm tàng, đe doạ tính mạng, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi nhồi máu cơ tim bao gồm rối loạn nhịp trầm trọng, suy tim tiến triển, sốc tim và ngừng tim... Một vài trường hợp, vùng cơ tim bị hoại tử lớn, gây thủng buồng tim (vỡ tim) có thể gây tử vong hoặc đòi hỏi phải phẫu thuật cấp cứu. Những biện pháp điều trị hiện đại như thuốc tiêu cục máu đông, can thiệp động mạch vành qua da, kết hợp với điều trị nội khoa tích cực từ sớm cho phép ngăn ngừa, hạn chế tiến triển và mức độ ảnh hưởng của các biến chứng với tiên lượng sống của bệnh nhân trong giai đoạn sớm cũng như lâu dài.
Nguyên tắc phòng tráng bệnh nhồi máu cơ tim |
||||
Không cần nói thì bất cứ ai trong chúng ta cũng hình dung được sự nguy hiểm của chứng bệnh nhối máu cơ tim. Và đây là 5 nguyên tắc vàng để phòng tránh chứng bệnh này. | ||||
|
|
Nhồi máu cơ tim là một tình trạng cấp cứu. Nguyên tắc chung là tái lập dòng máu chảy trong đoạn động mạch vành bị tắc càng sớm càng tốt để cứu vãn tối đa phần cơ tim thoi thóp do thiếu máu nuôi dưỡng nằm xen lẫn với những vùng cơ tim đã chết vì hoại tử do thiếu máu. Dòng chảy động mạch vành chỉ được khôi phục khi loại bỏ được cục máu đông bằng thuốc tiêu cục máu đông hoặc sử dụng các biện pháp can thiệp qua da như nong bắng bóng và hoặc đặt giá đỡ trong lòng động mạch vành kết hợp với việc hút bỏ cục máu đông... Chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ cục máu đông tự tan còn đa số phải được can thiệp. Tuy nhiên hiệu quả của các biện pháp này phụ thuộc rất nhiều vào thời gian áp dụng điều trị, thuốc tiêu cục máu đông chỉ có lợi thực sự khi được dùng ngay trong vòng từ 2 đến 4 giờ kể từ lúc khởi phát. Can thiệp động mạch vành qua da cũng chỉ có lợi rõ rệt khi được tiến hành trong vòng 12-18 giờ kể từ lúc khởi phát trừ một số trường hợp can thiệp muộn (trong vòng 36 giờ) vẫn có lợi như đau ngực tái phát sau nhồi máu, sốc tim, suy tim hoặc rối loạn nhịp tiến triển. Một tỷ lệ nhất định các trường hợp tới muộn không dùng được thuốc tiêu sợi huyết, thương tổn không phù hợp để can thiệp bằng bóng hoặc đặt giá đỡ thì mổ bắc cầu nối chủ vành cấp cứu là biện pháp cuối cùng để mở thông lòng mạch và cứu sống bệnh nhân dù tỷ lệ thành công ở giai đoạn cấp không phải là cao. Như vậy khi đã nhồi máu cơ tim, bệnh nhân cần được điều trị tích cực càng sớm càng tốt, nhất là việc mở thông đoạn mạch bị tắc.
Việc điều trị các thuốc phối hợp như thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu, thuốc chẹn bêta giao cảm, nitrate, thuốc ức chế men chuyển, thuốc giãn mạch, thuốc giảm đau, thuốc chống loạn nhịp, chữa suy tim ... là vô cùng cần thiết, giúp cơ tim nghỉ ngơi, tăng cường hiệu quả của việc tái lưu thông dòng chảy trong động mạch vành, ngăn ngừa sư lan rộng và hạn chế ảnh hưởng của vùng cơ tim đã chết đối với chức năng co bóp thất trái và sự sống còn của bệnh nhân kể cả trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Đối với những bệnh nhân không được can thiệp thì điều trị nội khoa không hề vô tác dụng mà ngược lại, không ít bệnh nhân vẫn duy trì được chất lượng và thời gian sống. Sau khi sống sót và phục hồi một phần qua giai đoạn cấp, bệnh nhân sẽ có chương trình phục hồi chức năng phù hợp, điều chỉnh lối sống và chế độ dự phòng cũng như điều trị và theo dõi lâu dài.
Nhồi máu cơ tim chỉ là một biến cố, biểu hiện cấp tính của cả một quá trình bệnh lý xơ vữa tiến triển âm it tiền tàng. Các biện pháp điều trị trong giai đoạn cấp cũng chỉ giải quyết được hậu quả của đoạn động mạch thủ phạm tức thời ngay lúc đó mà thôi. Thuốc tiêu cục máu đông không làm giảm mức độ hẹp của động mạch vành thủ phạm. Can thiệp động mạch vành qua da hoặc mổ bắc cầu nối trong giai đoạn cấp cứu cũng không phải là điều trị triệt để, không thể giải quyết được mọi chỗ hẹp và hoàn toàn không ngăn ngừa được tiến trình xơ vữa đang diễn ra âm thầm. Về lâu về dài, điều trị nội khoa bằng thuốc kết hợp với những biện pháp dự phòng khác vẫn là nền tảng cơ bản trong điều trị. Việc can thiệp động mạch vành qua da, mổ bắc cầu chủ vành có thể được tiến hành nhiều lần về sau để tiếp tục giải quyết những chỗ hẹp khác còn tồn đọng hoặc xuất hiện mới theo thời gian.
Điều chỉnh lối sống thích hợp làm giảm nguy cơ xơ vữa động mạch nói chung và nguy cơ nhồi máu cơ tim nói riêng (kể cả nhồi máu mới hoặc nhồi máu lại) bao gồm việc bỏ hoàn toàn hút thuốc lá, tránh ngửi khói thuốc, ăn ít chất béo, ăn thêm hoa quả, giảm cân nặng nếu thừa cân, kiểm soát chặt chẽ huyết áp và đường máu trong giới hạn cho phép. Nhiều thử nghiệm có quy mô rất lớn ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy việc dùng các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (aspirin...) và các thuốc hạ mỡ máu nhóm statin có hiệu quả tương đối rõ đối với phòng ngừa xuất hiện các biến cố tim mạch (không những nhồi máu cơ tim mà cả tai biến mạch não..). Ngoài ra theo dõi sát, điều chỉnh kịp thời, phát hiện từ sớm và xử trí triệt để cơn đau thắt ngực cũng có vai trò hết sức quan trọng để hạn chế và phòng ngừa xuất hiện nhồi máu cơ tim.
Bệnh nhồi máu cơ tim ở người cao tuồi
Tìm hiểu về bệnh thiếu máu cơ tim
Hở van tim
Tập thể dục cho người bị bệnh tim
Bệnh động mạch vành -
Thực phẩm tốt cho tim mạch
(st)