Nguyên nhân béo mặt và cách ăn uống tập luyện giúp chị em luôn rạng ngời
Nguyên nhân và cách phòng chống bệnh máu trắng ở trẻ em
Nguyên nhân của bệnh nấm móng tay, chân và cách điều trị hiệu quả
Nguyên nhân của bệnh đau khớp và chế độ ăn uống,kiêng kị cho người bệnh khớp
Nguyên nhân gây bệnh ung thư thanh quản và phác đồ điều trị. Cùng tham khảo những thông tin bổ ích dưới đây nhé
Ung thư thanh quản là gì?
Ung thư thanh quản có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trong thanh quản, thanh môn (vị trí của dây thanh âm), vùng trên thanh môn (vùng trên dây âm thanh) hoặc dưới thanh môn (vùng nối thanh quản với khí quản).
Nếu ung thư lan ra ngoài thanh quản, đầu tiên nó thường lan vào hạch vùng cổ. Nó còn có thể lan tới phía sau lưỡi, các phần khác ở cổ và họng, phổi và đôi khi các bộ phận khác trên cơ thể. Đó là ung thư thanh quản di căn.
Nguyên nhân gây ung thư thanh quản?
Một khối u ung thư bắt đầu từ một tế bào bất thường. Lý do chính xác lý do tại sao một tế bào trở thành ung thư là không rõ ràng.
Người ta cho rằng một cái gì đó thiệt hại hoặc làm thay đổi một số gen trong tế bào. Điều này làm cho các tế bào bất thường và mất 'kiểm soát'. Một số người phát triển ung thư thanh quản không có lý do rõ ràng. Tuy nhiên, một số "yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ ung thư thanh quản có thể phát triển.Chúng bao gồm:
Lão hoá. là phổ biến hơn ở người lớn tuổi. Hầu hết các trường hợp là ở những người trên 60 tuổi.
Hút thuốc lá. hút thuốc lá gây tổn hại đi qua thanh quản để có được đến phổi.
Uống nhiều rượu , đặc biệt là tinh thần.
Một chế độ ăn uống nghèo có thể là một yếu tố nguy cơ, đặc biệt là một chế độ ăn uống thiếu vitamin và khoáng chất nhất định.
Tiếp xúc lâu dài với hóa chất, khói hoặc các chất ô nhiễm có thể gây kích ứng, thanh quản nếu bạn hít thở trong và có thể làm tăng nguy cơ.
Human papilloma virus (HPV) đã được thể hiện trong một số nghiên cứu có liên quan với ung thư thanh quản.
Các yêu tố nguy cơ của ung thư thanh quản là gì?
Ung thư thanh quản thường xuất hiện ở những người trên 55 tuổi. Ở Mỹ, bệnh gặp ở nam giới nhiêu gấp bốn lần so với nữ giới và thường gặp ở người Mỹ da đen hơn người Mỹ da trắng. Các nhà khoa học ở bệnh viện và các trung tâm y tế trên cả nước đang nghiên cứu về căn bệnh này và tìm hiểu thêm về nguyên nhân cũng như cách phòng chống căn bệnh này. Nhưng chúng ta có thể chác chắn một điều là không ai lây ung thư từ một người khác. Ung thư không phải là căn bệnh lây nhiễm.
Một nguyên nhân đã được biết đến gây ung thư thanh quản là hút thuốc lá. Những người hút thuốc là có nguy cơ phát triển loại ung thư này cao hơn người không hút. Nguy cơ này thậm chí cao hơn ở những người hút thuốc và uống nhiều rượu. Những người bỏ hút thuốc lá có thể làm giảm hẳn nguy cơ phát triển ung thư thanh quản, cũng như ung thư phổi, miệng, tuyến tuỵ, bàng quang và thực quản. Hơn nữa, bỏ thuốc lá còn giúp những người đã bị ung thư thanh quản giảm nguy cơ mắc ung thư thanh quản lần thứ hai hoặc một loại ung thư mới ở một vị trí khác. Các nhóm tư vấn đặc biệt hoặc tự giúp đỡ rất hữu ích đối với những người đang cố gắng bỏ hút thuốc. Một số bệnh viện có lập các nhóm người muốn bỏ hút thuốc. Làm việc với amiăng có thể tăng nguy cơ mác ung thư thanh quản. Công nhân làm việc với amiăng phải tuân theo các quy định về an toàn lao động và tránh hít phải sợi amiăng.
Những người cho rằng mình có nguy cơ phát triển ung thư thanh quản nên thảo luận với bác sĩ của họ. Bác sĩ có thể gợi ý các cách để làm giảm nguy cơ và đề xuất một kế hoạch khám phù hợp.
Triệu chứng ung thư thanh quản ( hình minh họa)
Các triệu chứng của ung thư thanh quản là gì?
Một giọng nói khàn thường là triệu chứng đầu tiên bởi vì hầu hết các bệnh ung thư thanh quản lần đầu tiên bắt đầu, hoặc đóng, một dây thanh âm. Vấn đề là, một giọng nói khàn khàn là một triệu chứng phổ biến của viêm thanh quản (nhiễm virus của thanh quản). Hầu hết mọi người với khản giọng không có ung thư. Tuy nhiên, viêm thanh quản thường biến mất trong vòng một tuần hoặc lâu hơn. Do đó, thấy một bác sĩ nếu bạn phát triển một giọng nói khàn khàn không đi trong vòng 2-4 tuần.
Các triệu chứng khác có thể xảy ra khi khối u phát triển trong thanh quản bao gồm: một khối u trong cổ họng, đau ở cổ họng khi nuốt, khó thở. Những triệu chứng này có thể xảy ra trước khi một giọng nói khàn khàn phát triển nếu khối u không bắt đầu bên cạnh các dây thanh âm.
Nếu ung thư lan đến các hạch bạch huyết địa phương (các tuyến bạch huyết) sau đó các tuyến ở cổ gần đó sẽ sưng lên.
Nếu ung thư lan truyền đến các bộ phận khác của cơ thể , các triệu chứng khác nhau có thể phát triển.
Tất cả các triệu chứng có thể là do các điều kiện khác, nên cần xét nghiệm là cần thiết để xác định chẩn đoán.
Làm thế nào là ung thư thanh quản được chẩn đoán và đánh giá?
Đánh giá ban đầu
Nếu bác sĩ nghi ngờ rằng bạn có thể có ung thư thanh quản, họ sẽ giới thiệu bạn đến một chuyên gia về tai mũi họng (tai, mũi và cổ họng). Các chuyên gia sẽ kiểm tra bên trong cổ họng của bạn bằng cách sử dụng một gương nhỏ và ánh sáng linh hoạt. Họ cũng có thể sử dụng, mỏng, dẻo, đèn soi (một nasoendoscope). Điều này được thông qua vào mũi của bạn và xuống phía sau cổ họng của bạn. Nasoendoscope chứa ánh sáng quang, cho phép ánh sáng để tỏa sáng xuống để bác sĩ có thể nhìn thấy bên trong. (Cổ họng thường được phun với gây tê cục bộ trước khi sử dụng một nasendoscope nên thủ tục không phải là quá khó chịu.)
Để xác định chẩn đoán
Nếu bất cứ điều gì đáng ngờ được nhìn thấy bằng cách kiểm tra bạn thường sẽ cần phải sinh thiết. Sinh thiết là khi một mẫu nhỏ mô được lấy ra từ một phần của cơ thể. Mẫu này sau đó được nhìn dưới kính hiển vi để tìm tế bào bất thường. Các mẫu sinh thiết thu được bằng một dụng cụ mỏng, lấy linh hoạt được thông qua bằng mũi của bạn vào thanh quản.
Đánh giá mức độ và sự lan rộng (giai đoạn)
Ngoài ra các bài kiểm tra trên, nếu bạn được xác nhận bị ung thư thanh quản sau đó thêm các xét nghiệm có thể được thực hiện. Ví dụ, các mẫu sinh thiết có thể được lấy từ các tuyến bạch huyết gần đó bằng cách sử dụng một chiếc kim nhỏ. Điều này giúp đánh giá nếu có tế bào ung thư đã lan rộng đến các tuyến bạch huyết. Các xét nghiệm khác có thể được sắp xếp để xem ung thư đã lan rộng đến các bộ phận khác của cơ thể. Ví dụ, một máy quét CT, MRI, hoặc các xét nghiệm khác. (Có tờ rơi riêng biệt mô tả các xét nghiệm này chi tiết hơn.) đánh giá này được gọi là 'giai đoạn của ung thư. Mục đích của giai đoạn này là để tìm hiểu:
Làm thế nào nhiều khối u ở thanh quản đã phát triển.
Cho dù ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết ở địa phương.
Cho dù ung thư đã lan rộng đến các khu vực khác của cơ thể (metastasised).
Giai đoạn của bệnh ung thư
Các mẫu sinh thiết được xem xét dưới kính hiển vi để kiểm tra các tế bào ung thư. Bằng cách nhìn vào một số tính năng của các tế bào ung thư có thể được 'xếp loại'. hệ thống phân loại phổ biến được sử dụng cho ung thư thanh quản là:
Giai đoạn 1 (cấp thấp). Các tế bào nhìn hợp lý tương tự như các tế bào bình thường ở thanh quản. Các tế bào ung thư được cho là cũng có sự khác biệt. Các tế bào ung thư có xu hướng phát triển và nhân rộng khá chậm và không nên 'hung hăng'.
Giai đoạn 2 (trung cấp).
Giai đoạn 3 (cao cấp). Các tế bào trông rất bất thường và được cho là khó phân biệt. Các tế bào ung thư có xu hướng phát triển và nhân rộng khá nhanh chóng và hơn 'tích cực'.
Bằng cách tìm ra giai đoạn cấp của bệnh ung thư, giúp bác sĩ tư vấn về các lựa chọn điều trị tốt nhất. Nó cũng đưa ra một dấu hiệu cho thấy triển vọng hợp lý (tiên lượng).
Ung thư thanh quản được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư thanh quản là gì?
Triệu chứng của ung thư thanh quản phụ thuộc chủ yếu vào kích thước và vị trí của khối u. Hầu hết các trường hợp ung thư thanh quản đều bát đâu ở dây thanh âm. Những khối u này hiếm khi gây đau đớn nhưng chúng hầu như luôn gây ra hiện tượng khàn giọng hoặc thay đổi giọng nói. Khối u ở vùng phía trên dây thanh âm có thể gây nổi cục ở cổ, đau họng hoặc đau tai. Khối u vùng phía dưới dây thanh âm thường hiếm gặp. Chúng có thể gây khó thở hoặc thở có tiếng ồn, ho kéo dài hoặc cảm giác có cục ở cổ họng có thể là những dấu hiệu báo động của ung thư thanh quản. Khi khối u phát triển, nó có thể gây đau, giảm cân, khó thở và hay bị nghẹn thức ăn. Trong một số trường hợp, khối u ở thanh quản có thể gây khó nuốt.
Tất cả những triệu chứng này có thể do ung thư thanh quản hoặc do các tình trạng bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Chi có bác sĩ mới có thể khầng định được chắc chắn. Những người có các triệu chứng kể trên nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng.
Triệu chưng ung thư thanh quản ( hình ảnh nội soi )
Ung thư thanh quản được chẩn đoán như thế nào?
Để tìm nguyên nhân gây ra những triệu chứng này, bác sĩ sẽ hỏi về tiền sử bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm sàng đầy đủ. Bên cạnh việc kiểm tra những dấu hiệu sức khỏe chung, bác sĩ khám kĩ vùng cổ để tìm u cục, sự phù nề, vị trí nhạy cảm đau và các thay đổi khác. Bác sĩ có thể quan sát thanh quản bảng hai cách:
Soi thanh quản trực tiếp. Bác sĩ đưa một ống có nguồn sáng (ống nội soi thanh quản) qua mũi hoặc miệng của bệnh nhân. Khi ống này đi xuống họng, bác sĩ có thể quan sát được những vùng không thể nhìn thấy qua gương soi đơn giản. Việc gây tê tại chỗ giúp làm giảm bớt sự khó chịu và phòng hiện tượng oẹ. Bệnh nhân có thể được cho uống thuốc an thần nhẹ. Đôi khi, bác sĩ có thể gây mê toàn thân để làm cho bệnh nhân ngủ. Có thể soi thanh quản ở phòng khám của bác sĩ, ờ một phòng khám ngoại trú hay ở bệnh viện.
Nếu bác sĩ phát hiện ra những vùng bất thường, bệnh nhân cần phải được sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất chác chắn để kháng định ung thư. Để tiến hành sinh thiết, bệnh nhân được gâytê tại chỗ hoặc gây mê toàn thân và bác sĩ lấy một mẫu bệnh phẩm qua ống nội soi thanh quản. Sau đó, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ quan sát mẫu mô này dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Nếu phát hiện ra ung thư, bác sĩ giải phẫu có thể cho biết đó là loại ung thư gì. Hầu hết các trường hợp ung thư thanh quản là ung thư biểu mô tế bào vẩy. Loại ung thư này bât đầu từ các tế bào dẹt dạng vẩy lót nắp thanh quản, dây thanh âm và các bộ phận khác của thanh quản.
Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh phát hiện ra ung thư, bác sĩ của bệnh nhân cần biết giai đoạn (phạm vi) của bệnh để lập kế
hoạch điều trị tốt nhất. Để biết được kích thước của khối u và để xem ung thư đã lan chưa, bác sĩ thường chi định thêm một số thăm dò khác như chụp X quang, chụp cắt lớp vi tính và/hoặc chụp cộng hưởng từ để có được những hình ảnh chi tiết của những vùng trong cơ thể.
Ung thư thanh quản.
Ung thư thanh quản được điều trị như thế nào?
Ung thư thanh quản thường được điều trị bằng tia xạ hoặc bâng phẫu thuật. Đây là các phương pháp điều trị tại chỗ; có nghĩa là chúng chi ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở vùng được điều trị. Một số bệnh nhân có thể được điều trị bằng hóa chất, được gọi là điều trị toàn thân, có nghĩa là thuốc được vận chuyển đi khắp các mạch máu. Chúng có thể đến được các tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể. Bác sĩ có thể chỉ sử dụng một phương pháp hoặc có thể kết hợp các phương pháp, tuỳ thuộc vào nhu cầu của bệnh nhân.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân được giới thiệu đến bác sĩ chuyên điều trị các loại ung thư khác nhau. Thông thường, có nhiều chuyên gia cùng làm việc trong một đội. Đội ngũ bác sĩ điều trị có thể bao gồm một bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ tai mũi họng, bác sĩ ung thư, bác sĩ tia xạ ung thư, bác sĩ chuyên về phát âm, y tá và chuyên gia dinh dưỡng. Nha sĩ cũng có thể là một thành viên quan trọng trong đội ngũ này, đặc biệt là đối với bệnh nhân được điều trị bằng tia xạ.
Liệu pháp tia xạ sử dụng những tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chặn chúng phát triển. Tia được chiếu vào khối u và vùng xung quanh nó. Bất cứ khi nào có thể, bác sĩ thường gợi ý phương pháp điều trị này vì nó có thể phá huỷ khối u mà không làm bệnh nhân mất tiếng. Liệu pháp chiếu xạ có thể kết hợp với phẫu thuật; nó có thể được sử dụng để làm co nhỏ khối u trước khi phẫu thuật hoặc tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu thuật. Hơn nữa, phương pháp chiếu xạ có thể được sử dụng để điều trị những khối u không thể cắt bỏ được hoặc những bệnh nhân không thể phẫu thuật vì những lý do khác. Nếu khối u tái phát sau phẫu thuật, nói chung người ta thường điều trị nó bằng tia xạ.
Phẫu thuật hoặc phẫu thuật kết hợp với tia xạ được chi định cho một số bệnh nhân mới được chẩn đoán ung thư. Hơn nữa, phẫu thuật là phương pháp điều trị thường được áp dụng nếu khối u không đáp ứng với liệu pháp chiếu xạ hoặc phát triển trở lại sau khi chiếu xạ. Khi bệnh nhân cần phẫu thuật, kiểu phẫu thuật phụ thuộc chủ yếu vào kích thước và vị trí chính xác của khối u.
Nếu khối u ở trên dây thanh âm rất nhỏ, bác sĩ phảu thuật có thể sử dụng tia laser, một chùm ánh sáng mạnh. Chùm sáng này có thể cắt bỏ khối u theo cách giống như dùng một dao mổ.
Phẫu thuật để cất bỏ một phần hoặc toàn bộ thanh quản được gọi là thủ thuật cắt thanh quản bán phần hoặc toàn bộ. Trong cả hai loại phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật phải mở khí quản, tạo ra một lỗ thoát ra phía trước cổ. (Lỗ thoát có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn). Không khí đi vào và ra khỏi khí quản và phổi qua lỗ mở khí quản này. Một ống mở thông khí quản giữ cho đường dẫn khí mới này ở trạng thái mở.
Phẫu thuật cắt bỏ thanh quản bán phần có thể bảo toàn giọng nói. Bác sĩ phẫu thuật chi cắt bỏ một phần hộp âm thanh - chi cắt một dây thanh âm hoặc một đoạn dây thanh âm hoặc chi cắt nắp thanh quản - và lỗ mở khí quản chi là tạm thời. Sau một thời gian hồi phục ngán, ống mở thông khí quản được rút ra và lỗ thông đóng lại. Bệnh nhân có thể thở và nói chuyện như bình thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giọng nói có thể bị khàn hoặc yếu đi.
Trong phẫu thuật cắt bỏ thanh quản toàn bộ, toàn bộ hộp âm thanh được cắt bỏ và lỗ thoát được mở vĩnh viễn. Người bị cắt thanh quản thở qua lỗ mở khí quản. Người có thanh quản bị cắt phải học nói theo cách mới. Nếu bác sĩ cho ràng ung thư có thể đã bắt đầu lan thì các hạch ở cổ và một số mô ở quanh chúng được cát bỏ. Những hạch này thường là những vị trí đầu tiên ung thư lan tới.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc điều trị ung thư để tiêu diệt tế bào ung thư. Bác sĩ có thể gợi ý một loại thuốc hoặc kết hợp nhiều loại thuốc. Trong một số trường hợp, các thuốc chống ung thư được sử dụng để làm co nhỏ khối u trước khi bệnh nhân được phẫu thuật hoặc chiếu xạ. Hơn nữa, hóa chất có thể được sử dụng để điều trị ung thư đã lan.
Thuốc điều trị ung thư thanh quản thường được tiêm vào mạch máu. Thông thường thuốc được điều trị theo chu kỳ - một đợt điều trị được nối tiếp bầng một đợt nghi hồi phục, sau đó là một đợt điều trị khác và một đợt nghi hồi phục và tương tự như vậy. Một số bệnh nhân được điều trị hóa chất ngoại trú tại bệnh viện, văn phòng bác sĩ hoặc tại nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc, kế hoạch điều trị và tình trạng sức khỏe chung, bệnh nhân có thể cẩn phải nẳm viện trong một thời gian ngắn.
Các nghiên cứu điều trị
Nhiều thử nghiệm lâm sàng về các phương pháp điều trị ung thư thanh quản mới hiện đang được tiến hành. Bác sĩ đang nghiên cứu các tuýp và các phác đồ điều trị mới bảng tia xạ, các loại thuốc mới và các phương pháp mới kết hợp các tuýp điều trị khác nhau. Các nhà khoa học đang cố gắng để làm tăng hiệu quả của xạ trị bằng cách chiếu tia hai lần trong một ngày thay cho một lần. Hơn nữa, họ cũng đang nghiên cứu các loại thuốc mới được gọi là "chất nhạy cảm phóng xạ". Những loại thuốc này làm cho tế bào ung thư trở nên nhạy cảm hơn với tia phóng xạ.
Bệnh nhân ung thư thanh quản có nguy cơ mắc một loại ung thư mới ở thanh quản hoặc ở phổi, miệng hoặc họng cao hơn.
Bác sĩ đang khám phá các phương pháp để phòng chống các loại ung thư mới này. Một số nghiên cứu đã chi ra một loại thuốc có liên quan tới vitamin A có thể bảo vệ bệnh nhân tránh mác các loại ung thư mới.
Nội soi thanh quản.
Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Các phương pháp được sử dụng để điều trị ung thư rất mạnh. Rất khó giới hạn ảnh hưởng của điều trị để chi có tế bào ung thư bị cắt bỏ hoặc phá huỷ; tế bào lành cũng có thể bị phá huỷ. Đó là nguyên nhân tại sao điều trị ung thư thường gây ra các tác dụng phụ khó chịu.
Tác dụng phụ của điều trị ung thư khác nhau. Chúng phụ thuộc chủ yếu vào loại và phạm vi của điều trị. Hơn nữa, mỗi bệnh nhân lại có những phản ứng khác nhau. Bác sĩ cố gắng lập kế hoạch điều trị sao cho có ít tác dụng phụ nhất. Bác sĩ, y tá, chuyên gia dinh dưỡng và bác sĩ chuyên khoa phát âm có thể giải thích tác dụng phụ của điều trị và gợi ý các cách để đối phó với chúng. Bệnh nhân cũng nên nói chuyện với một người bệnh khác. Trong nhiều trường hợp, một người làm công tác xã hội hoặc một thành viên khác trong đội ngũ nhân viên y tế có thể sắp xếp cho bệnh nhân đến gặp một người cũng được điều trị bâng phương pháp giống mình.
Tác dụng phụ của liệu pháp chiếu xạ
Trong khi chiếu xạ, quá trình lành sẹo sau khi điều trị răng có thể là vấn đề. Đó là nguyên nhân tại sao bác sĩ muốn bệnh nhân của họ bát đầu điều trị khi răng và lợi ở tình trạng tốt nhất. Bác sĩ thường khuyên bệnh nhân khám toàn bộ răng và điều trị tất cả các vấn đề về răng trước khi xạ trị bắt đầu. Điều quan trọng là bệnh nhân phải đến nha sĩ khám răng định kỳ vì miệng có thể nhạy cảm và dễ bị kích thích trong thời gian điều trị ung thư.
Trong nhiều trường hợp, miệng có thể bị nhạy cảm đau trong khi điều trị và một số bệnh nhân có thể bị đau miệng. Bác sĩ có thể gợi ý một loại nước súc miệng đặc biệt để làm tê miệng và làm giảm sự khó chịu.
Xạ trị thanh quản gây ranhững thay đổi ở nước bọt và làm giảm lượng nước bọt. Vì thông thường nước bọt bảo vệ răng nên bệnh nhân có thể bị sâu răng sau khi điều trị. Chăm sóc răng tốt có thể giữ cho răng và lợi khỏe mạnh và có thể làm cho bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn.
Bệnh nhân phải cố gắng hết sức để giữ cho răng sạch. Rất khó đế đánh bóng răng hoặc đánh răng theo cách bình thường, bệnh nhân có thể sử dụng gạc, một loại bàn chải đánh răng mềm hoặc một bàn chải đánh răng đặc biệt có đầu làm bằng bọt xốp thay cho sợi cước. Một loại nước súc miệng làm từ peroxid loãng (nước ôxy già), nước muối và bột sôđa có thể giữ cho miệng sạch và giúp bảo vệ răng không bị sâu. Bệnh nhân cũng nên sử dụng kem đánh răng có Florua và/hoặc là nước súc miệng có Florua để làm giảm nguy cơ bị sâu răng. Bác sĩ nha khoa có thể gợi ý một chương trình dùng
Florua đặc biệt để giữ cho miệng khỏe mạnh.
Nếu hiện tượng giảm số lượng nước bọt làm cho miệng khô đến mức khó chịu, bệnh nhân nên uống nhiều nước. Một số bệnh nhân sử dụng một loại thuốc xịt đặc biệt (nước bọt nhân tạo) để làm giảm nhẹ chứng khô miệng.
Bệnh nhân được điều trị bằng tia xạ thay cho phẫu thuật không phải mở khí quản. Họ có thể thở và nói chuyện bình thường mặc dù giọng nói của họ có thể thay đổi do điều trị. Hơn nữa, giọng nói của họ có thể yếu đi về cuối ngày và thường bị ảnh hưởng do thay đổi thời tiết. Sự thay đổi giọng nói và cảm giác có cục ở họng có thể do hiện tượng phù nề thanh quản vì chiếu xạ. Điều trị có thể gây đau họng. Bác sĩ có thể chi định thuốc để giảm phù nề hoặc giảm đau.
Trong khi chiếu xạ, bệnh nhân có thể rất mệt mỏi, đặc biệt là những tuần cuối. Nghi ngơi là rất quan trọng nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh nhân là cố gắng vận động khi có thể. Hiện tượng thường gặp là da ở vùng điều trị có thể bị đỏ hoặc khô. Da có thể tiếp xúc với không khí nhưng phải tránh ánh náng mặt trời và bệnh nhân nên tránh mặc các loại quần áo cọ sát vào vùng được điều trị. Trong thời gian điều trị tia xạ lông tóc thường không mọc ở vùng được điều trị; nếu mọc, thì nam giới không nên cạo. Chăm sóc da cẩn thận là rất quan trọng ở thời điểm này. Bệnh nhân sẽ được hướng dẫn cách giữ cho vùng da điều trị được sạch và không nên bôi bất kỳ loại kem hoặc thuốc mỡ nào lên da trước khi chiếu xạ. Hơn nữa, bệnh nhân cũng không nên sử dụng bất cứ loại nước rửa hoặc kem nào vào các thời điểm khác mà không có lời khuyên của bác sĩ.
Một số bệnh nhân than phiền về việc chiếu xạ làm cho lưỡi của họ bị nhạy cảm. Họ có thể mất vị giác hoặc khứu giác hoặc miệng có vị đáng. Uống nhiều nước có thể làm giảm vị đắng trong miệng. Thông thường, bác sĩ, y tá có thể gợi ý các cách khác để làm giảm những vấn đề này. Và nên nhớ rằng, mặc dù những tác dụng phụ của chiếu xạ có thể không biến mất hoàn toàn nhưng hầu hết chúng sẽ giảm dần và bệnh nhân thường cảm thấy khỏe hơn khi điều trị đã kết thúc.
Tác dụng phụ của phẫu thuật
Giữ cho bệnh nhân thoải mái là một phần quan trọng trong điều trị thường quy ở bệnh viện. Nếu bệnh nhân bị đau thì có thể sử dụng thuốc để giảm đau. Bệnh nhân nên thảo luận cởi mở với bác sĩ về các biện pháp giảm đau.
Trong vài ngày sau khi phẫu thuật, bệnh nhân có thể không ăn, uống được. Trước hết, sừ dụng một đường truyền tĩnh mạch để cung cấp dịch. Trong một hoặc hai ngày, ống tiêu hóa sẽ trở lại bình thường, nhưng bệnh nhân vần chưa thể nuốt được do họng vẫn chưa lành. Dịch và chất dinh dưỡng được đưa vào cơ thể qua một ống xông dạ dày (được đặt trong khi phẫu thuật qua đường mũi). Khi họng hết phù nề và vùng điều trị đã lành sẹo thì có thể rút ống xông ra. Lúc đầu, bệnh nhân có thể khó nuốt và bệnh nhân có thể cần hướng dẫn của y tá hoặc bác sĩ chuyên khoa phát âm. Dần dần, bệnh nhân sẽ quay trở lại với chế độ ăn bình thường.
Sau khi phẫu thuật, phổi và khí quản tiết ra rất nhiều dịch nhầy (đờm). Để lấy sạch đờm, y tá sẽ nhẹ nhàng hút bầng một ống nhựa nhỏ luồn qua lỗ mở khí quản. Sau đó, bệnh nhân học cách ho và hút dịch nhầy qua lỗ mở khí quản mà không cần sự trợ giúp của y tá. Trong một thời gian ngắn, bệnh nhân cũng có thể cần được hút bớt nước bọt vì họ bị khó nuốt do họng bị phù nề.
Thông thường, không khí được làm ẩm bâng các mô ở mũi và họng trước khi vào khí quản. Sau khi phẫu thuật, không khí trực tiếp đi vào khí quản qua lỗ mở khí quản và không được làm ẩm như bình thường. Trong bệnh viện, bệnh nhân được làm dễ chịu bằng một thiết bị đặc biệt làm ẩm không khí.
Trong vài ngày sau phẫu thuật cẳt thanh quản bán phần, bệnh nhân thở qua lỗ mở khí quản. Một thời gian ngắn sau đó Ống thông khí quản được lấy ra; Khoảng vài tuần tiếp theo, lỗ mở khí quản sẽ đóng lại. Như vậy, bệnh nhân có thể thở và nói chuyện bình thường mặc dù tiếng nói có thể không giống y như trước khi phẫu thuật.
Sau phẫu thuật cắt bỏ thanh quản toàn bộ, lỗ mở khí quản sẽ tồn tại vĩnh viễn. Bệnh nhân thở, ho, "hắt xì hơi" qua lỗ mở đó và phải học nói theo cách mới. ống thông khí quản được lưu lại ít nhất trong vài tuần (cho đến khi da ở xung quanh lỗ mở khí quản lành trở lại) và một số bệnh nhân tiếp tục sử dụng ống liên tục hoặc từng lúc. Nếu ống được rút ra, người ta thường thay thế bằng một núm mở thông khí quản nhỏ hơn. Sau một thời gian, một số bệnh nhân có thanh quản bị cắt có thể không cần sử dụng ống hoặc là núm mở thông khí quản nữa.
Sau phẫu thuật cắt thanh quản, một phần họng hoặc cổ có thể bị tê vì các dây thần kinh bị cắt. Hơn nữa, sau khi phẫu thuật để nạo vét hạch cố, vai và cố có thể bị yếu và cứng.
Tác dụng phụ của hóa trị liệu
Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại thuốc được điều trị. Nói chung, thuốc điều trị ung thư ảnh hưởng tới các tế bào phân chia nhanh, như tê' bào máu, tế vậy bệnh nhân có thể có các tác dụng phụ như khả năng chống nhiễm khuẩn giảm, chán ăn, buồn nôn, nôn hoặc đau miệng. Họ có thể cảm thấy yếu hơn và có thể bị rụng tóc.
Ảnh hưởng của đĩêu trị đối với việc ăn uổng
Mất cảm giác ăn ngon miệng có thể là vần đề đối với bệnh nhân được điều trị ung thư thanh quản. Bệnh nhân có thể không cảm thấy đói khi họ thấy khó chịu hoặc mệt mỏi.
Những người bị cắt thanh quản có thể chán ăn bởi vì phẫu thuật làm thay đổi khứu giác và vị giác. Xạ trị cũng có thể ảnh hưởng tới vị giác. Tác dụng phụ của hóa chất cũng làm cho bệnh nhân khó ăn ngon. Tuy nhiên, bổ sung dinh dưỡng
vậy bệnh nhân có thể có các tác dụng phụ như khả năng chống nhiễm khuẩn giảm, chán ăn, buồn nôn, nôn hoặc đau miệng. Họ có thể cảm thấy yếu hơn và có thể bị rụng tóc.
Ảnh hưởng của điều trị đối với việc ăn uống
Mất cảm giác ăn ngon miệng có thể là vần đề đối với bệnh nhân được điều trị ung thư thanh quản. Bệnh nhân có thể không cảm thấy đói khi họ thấy khó chịu hoặc mệt mỏi.
Những người bị cắt thanh quản có thể chán ăn bởi vì phẫu thuật làm thay đổi khứu giác và vị giác. Xạ trị cũng có thể ảnh hưởng tới vị giác. Tác dụng phụ của hóa chất cũng làm cho bệnh nhân khó ăn ngon. Tuy nhiên, bổ sung dinh dưỡng đầy đủ là rất quan trọng. Ăn tốt có nghĩa là lấy đủ lượng calo và protein để ngăn chặn giảm cân, lấy lại sức mạnh và tái tạo lại các mô thường.
Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân có thể phải học nuốt trở lại với sự trợ giúp của một y tá hoặc một bác sĩ chuyên gia phát âm. Một số bệnh nhân thấy thức ăn dạng lỏng dễ nuốt hơn; những bệnh nhân khác lại thấy nuốt thức ăn ở dạng rắn dễ hơn. Nếu khó ăn vì miệng bị khô do chiếu xạ, bệnh nhân có thể muốn thử các loại thức ăn trộn, mềm được làm ẩm bầng nước sốt hoặc nước thịt. Một số bệnh nhân khác lại thích ăn súp đặc, bánh mềm và sữa bột có hàm lượng protein cao. Y tá và chuyên gia dinh dưỡng sẽ giúp bệnh nhân lựa chọn loại thức ăn phù hợp. Hơn nữa, nhiều bệnh nhân thấy ăn nhiều bữa ăn nhò và bữa ăn nhẹ trong ngày tốt hơn ăn ba bữa chính.
Ung thư thanh quản giai đoạn muộn. Hãy đi khám để phát hiện sớm bệnh ung thư
Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi thường xuyên là rất quan trọng sau khi điều trị ung thư thanh quản. Bác sĩ thường kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo ung thư không xuất hiện lại. Khám theo dõi bao gồm kiểm tra lỗ mở khí quản, cổ và họng. Thỉnh thoảng bác sĩ tiến hành khám lâm sàng toàn thân, xét nghiệm máu và nước tiểu và chụp x.quang. Bệnh nhân được chiếu xạ hoặc phẫu thuật cắt thanh quản bán phần sẽ được nội soi thanh quản.
Những đối tượng đã được điều trị ung thư thanh quản có nguy cơ phát triển một loại ung thư khác ở miệng, họng hoặc các vùng khác ở đầu và cổ cao hơn bình thường. Điều này đặc biệt đúng đối với những người hút thuốc. Hầu hết các bác sĩ đều nhấn mạnh với bệnh nhân là cần phải bỏ hút thuốc để giảm nguy cơ phát triển loại ung thư mới và giảm nguy cơ bị các vấn để phiền toái khác, như ho.
Vấn đề nói và thở sau khi cắt thanh quản
Nếu bệnh nhân được phát hiện và điều trị sớm khi ung thư còn khu trú ở một thanh đai thì chỉ cần phẫu thuật cắt bỏ một phần thanh quản có liên quan với khối u. Bệnh nhân sau mổ có thể nói và thở qua đường tự nhiên, mặc dù tiếng nói không trong trẻo như trước.
Nếu phát hiện muộn, khi ung thư đã lan rộng thì buộc phải cắt bỏ toàn bộ thanh quản. Lúc này, bệnh nhân phải thở qua lỗ mở khí quản ra da ở cổ và không nói được. Tuy nhiên, có nhiều cách để giúp người bệnh có thể nói như: Tạo một khe thanh môn mới sau khi cắt bỏ thanh quản; đặt ống phát âm xuyên qua thành khí thực quản; dùng máy điện tử; luyện nói bằng giọng thực quản… Nhưng dù cách nào đi nữa, người bệnh cũng phải tập luyện mới nói trở lại được.
Phòng ngừa bệnh ung thư thanh quản
Cách phòng bệnh tốt nhất là loại bỏ các yếu tố nguy cơ gây ung thư như thuốc lá và rượu. Các nghiên cứu cho thấy số người hút thuốc lá bị ung thư thanh quản chiếm 12%, so với người không hút thuốc lá là 2%.
Nếu khàn tiếng kéo dài quá 2 tuần xảy ra ở người trên 40 tuổi, đã dùng những thuốc kháng viêm thông thường nhưng không khỏi thì phải đi khám tai mũi họng. Đối với những bệnh nhân bị u nhú thanh quản (papillome), bạch sản thanh quản, phải khám bệnh định kỳ để phát hiện sớm những trường hợp bệnh có thể chuyển thành ung thư.
Ai dễ mắc ung thư thanh quản?
Ung thư thanh quản là gì? |
Thanh quản ở phía trước cổ, nằm phía trên đường dẫn khí (khí quản), phía dưới và sau thanh quản là thực quản. Gồm 3 phần chính:
Phía trên của thanh quản gọi là tầng thượng thanh môn. Thanh môn nằm ở giữa (dây thanh âm nằm ở vùng thanh môn). Hạ thanh môn nằm ở dưới cùng và nối liền với khí quản.
Ung thư thanh quản là những ung thư xuất phát từ lớp tế bào biểu mô phủ bề mặt thanh quản.
|
Vì sao bị mắc ung thư thanh quản?
Theo nghiên cứu của GS. William M Lydiatt, năm 2009, tỉ lệ về sống thêm 5 năm của những người được chẩn đoán tại Mỹ như sau: Giai đoạn I: 95% Giai đoạn II: 85% Giai đoạn III: 65% Giai đoạn IV: 40% Tuy nhiên, những con số này chỉ dựa trên số lượng ít bệnh nhân nên không hoàn toàn chính xác. |
Nguyên nhân gây bệnh hiện chưa rõ ràng nhưng các nhà nghiên cứu thấy vai trò của một số yếu tố nguy cơ sau:
Nghiện thuốc lá là yếu tố nguy cơ cao nhất cho ung thư thanh quản.
Rượu cũng là một yếu tố nguy cơ tuy chưa có bằng chứng rõ ràng nhưng khi kết hợp sử dụng cả hai (thường là như vậy) thì có thể gây tác dụng hiệp đồng.
Một số yếu tố khác có khả năng liên quan đến nghiện rượu và thuốc lá kéo dài gồm tình trạng kinh tế xã hội thấp, giới tính nam, tuổi trên 55 và nhiễm HPV (Human papilloma virus), dinh dưỡng kém.
Một số yếu tố khác được đề cập như liên quan đến nghề nghiệp, tiếp xúc hóa chất như amian… lạm dụng giọng…
Ung thư thanh quản hay xảy ra với người Việt Nam như thế nào?
Bệnh hay xảy ra ở nam giới trên 55 tuổi, có tiền sử nghiện rượu và thuốc lá hay thuốc lào kéo dài.
Phòng tránh ung thư thanh quản cách nào?
Bệnh ung thư thanh quản người không có nguyên nhân gây bệnh rõ ràng, do đó chưa có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu.
Có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh bằng cách bỏ rượu và thuốc lá. Sử dụng chế độ ăn đầy đủ, cân đối.
Làm thế nào để biết chắc bị mắc ung thư thanh quản?
Bệnh có thể gây ra một hoặc nhiều triệu chứng. Bạn nên đi khám nếu có một/nhiều triệu chứng sau:
Khàn tiếng hoặc thay đổi giọng nói kéo dài trên 2 tuần.
Cảm thấy có khối bất thường vùng họng hay cổ.
Đau họng, nuốt vướng.
Ho dai dẳng.
Đau họng lan lên tai.
Các thầy thuốc sẽ kiểm tra tai - mũi - họng. Khi phát hiện có u thanh quản sẽ lấy sinh thiết để chẩn đoán xác định.
Phương pháp điều trị
Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào:
Giai đoạn của bệnh.
Vị trí và kích thước của khối u.
Nguyện vọng của bệnh nhân về các chức năng nuốt, thở, nói.
Điều trị gồm: phẫu thuật, xạ trị, hóa trị. Có thể theo một phương thức hoặc nhiều trường hợp cần phối hợp của các phương thức điều trị (ví dụ: phẫu thuật với xạ trị; hóa trị với xạ trị hoặc hóa trị + phẫu thuật + xạ trị).
|
Chế độ ăn cho người mắc ung thư thanh quản
Nói chung, không có khuyến cáo chế độ ăn dành riêng cho người bệnh. Nên có chế độ ăn đầy đủ, cân đối và hạn chế tối đa sử dụng rượu và thuốc lá, thuốc lào.
Sau điều trị, người bị ung thư thanh quản nên vận động và làm việc như thế nào?
Sau điều trị, người bệnh vẫn cần tự chăm sóc và hoạt động thể lực hợp lý để có được tình trạng sức khỏe chung tốt. Không có một chỉ định riêng về vận động và làm việc cho người bệnh ung thư thanh quản. Nên bỏ hẳn thói quen hút thuốc và uống rượu.
Những người mắc ung thư thanh quản ở Việt Nam đã được cứu sống hoặc kéo dài cuộc sống như thế nào?
Cũng như các ung thư khác, tỷ lệ chữa khỏi và kiểm soát kéo dài sống thêm cho bệnh nhân bị ung thư thanh quản có nhiều tiến bộ, đặc biệt khi bệnh nhân được phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm. Khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, nhất là khi không còn khả năng phẫu thuật, tiên lượng bệnh trở nên rất kém. Theo các nghiên cứu của các tác giả trong nước cho thấy, kết quả của Việt Nam còn thấp so với thống kê của các tác giả nước ngoài.
U nang dây thanh
Làm gì khi bị khàn tiếng
Khàn tiếng nguyên nhân và cách điều trị
Ung thư thực quản -
Nguyên nhân ung thư thực quản
Chữa khản tiếng lâu ngày không khỏi
(st)