Nguyên nhân hạ huyết áp

Bên cạnh những biến chứng nguy hiểm do tăng huyết áp thì hạ huyết áp cũng cần được đặc biệt quan tâm. Dưới đây là những nguyên nhân thường gặp.

Nguyên nhân thường gặp của hạ huyết áp

Hạ huyết áp theo tư thế (orthostatic hypotension):

Hoa mắt, chóng mặt, khi từ tư thế nằm chuyển nhanh sang ngồi hoặc từ ngồi chuyển sang đứng. Có thể ngã hoặc ngất xỉu. Đo huyết áp: huyết áp tâm thu tụt > 20mmHg. huyết áp tâm trương tụt > 10mmHg

Cơ chế: Cơ thể không kịp điều chỉnh huyết áp qua thần kinh giao cảm để đối phó với sự thay đổi tư thế.

Thường gặp ở:

  • Người cao tuổi, người có vữa động mạch não nhiều.
  • Có thai, nhất là vào những tháng cuối, đứng lâu cũng có thể tụt huyết áp.
  • Dùng thuốc hạ huyết áp mạnh.
  • Suy tim nặng.

Hạ huyết áp sau ăn: Thường sau ăn 30-75 phút sau ăn no. Hiện tượng này được giải thích là do máu dồn về vùng tạng nhiều. Nơi khác như não, lại thiếu lưu lượng máu cần thiết.

Hạ huyết áp sau khi đi tiểu, sau đại tiện, sau cơn ho, sau nuốt nghẹn: được giả thuyết là do kích thích mạnh thần kinh X. Người ta còn nhận thấy có trường hợp hạ huyết áp, ngất, thậm chí tử vong, sau khi thắt cà vạt hoặc sau khi bị bóp vùng xoang cảnh, do cơ chế nói trên.

Thai nghén: Người có thai, thường vào nửa sau của thai kỳ, khi đứng lâu nhất là ở chỗ đông người, có thể bị tụt huyết áp, xỉu. Cơ chế: Máu dồn về tử cung nhiều, máu lên não thiếu…

Nhiễm khuẩn, nhiễm độc nặng.

Mất nước (qua đường tiêu hoá: nôn, tiêu chảy; qua đường da: mất nhiều mồ hôi…). Chỉ cần mất 1% trọng lượng cơ thể đã có triệu trứng rồi.

Thiếu máu nặng do mất máu.

Bệnh nội tiết: Thiểu năng tuyến giáp, huyết áp có thể thấp.

Một số trường hợp hạ huyết áp trên cơ sở tăng huyết áp hoặc có bệnh tim mạch:

  • Hạ huyết áp ở người đang dùng thuốc chữa bệnh tăng huyết áp: Đặc biệt chú ý ở những người cao tuổi, người có bệnh đái tháo đường, người mới dùng thuốc. Do đó, kiểm tra đều huyết áp, ở tư thế nằm và ngồi, ở các đối tượng đó là cần thiết.
  • Hạ huyết áp ở người có tăng huyết áp do u thượng thận: Không hiếm gặp tụt huyết áp trên cơ sở huyết áp rất cao ở người có u thượng thận loại pheochromocytoma, khi huyết áp tụt, có khi phải truyền cấp cứu thuốc vận mạch (Dobutamine); nguyên nhân có thể là sự tăng giảm bất thường của sản xuất catecholamine thượng thận.
  • Biến thiên trong ngày của huyết áp: Có trường hợp huyết áp thấp hơn ở người bình thường, vì vậy, ngày nay người ta không nói tới huyết áp dao động, vì đó là bản chất của Thuyết áp và người ta dùng thuật ngữ Thuyết áp hơn là cao huyết áp, vì trong ngày có khi huyết áp thấp, không thể dựa vào thời điểm đó để chẩn đoán bệnh được. Cũng trong phạm vi biến thiên của huyết áp trong ngày, đa số chúng ta có huyết áp hạ về đêm (gọi là loại dipper), nhưng có một số người, huyết ápy gặp ở người có bệnh Thuyết áp, huyết áp không hạ về đêm (don dipper), thậm chí có trường hợp còn tăng cao hơn ban ngày.
  • Hạ huyết áp do tổn thương cơ tim: Nhồi máu cơ tim, bệnh cơ tim…

Huyết áp thấp vì sao?


Huyết áp thấp là khi huyết áp tối đa dưới 90mmHg, huyết áp tối thiểu dưới 50mmHg (< 90/50). Bệnh nhân ý thức lơ mơ hoặc mất hoàn toàn do thiếu oxy não. Nguyên nhân đôi khi chỉ do quá xúc động, như trông thấy tai nạn, chảy máu hoặc đau khi tiêm, nhổ răng.

Huyết áp thấp đột biến: là tình trạng huyết áp đang bình thường hay cao từ trước, nay hạ xuống đột ngột (hạ chừng 30-40mmHg). Trường hợp này thường là do một bệnh lý. Hạ huyết áp đột ngột gây ra tình trạng suy tuần hoàn cấp. Huyết áp có thể rất thấp hoặc mất, mạch nhanh, nhỏ hoặc không bắt được. Ý thức lơ mơ hoặc mất hoàn toàn do thiếu oxy não.

Các mức độ suy tuần hoàn từ nhẹ đến nặng như sau:

- Choáng váng, xây xẩm, thoáng ngất, nằm xuống một lúc thấy đỡ.

- Ngất: xảy ra nhanh, mất ý thức, ngừng thở, ngừng tim rồi phục hồi nhanh chóng.

- Truỵ mạch: xảy ra đột ngột, ý thức lơ mơ, huyết áp hạ, mạch nhanh, nhỏ. Thường gặp ở các bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc. Bệnh tim mạch giai đoạn nặng.

- Sốc: xảy ra từ từ, mạch nhanh, huyết áp hạ, trán vã mồ hôi.

- Chết đột ngột: là tình trạng không có huyết áp, không mạch. Không hồi phục mặc dù cấp cứu hồi sức tốt.

Nguyên nhân gây huyết áp thấp đột biến gồm:

Cường phó giao cảm: còn gọi là cường phế vị, người xanh xao, mệt mỏi, hay ngáp, nhịp tim chậm. Huyết áp hạ đột ngột xảy ra khi lo sợ, khi quá xúc động, như trông thấy tai nạn, chảy máu hoặc đau khi tiêm, khi nhổ răng…

Một số bệnh tim mạch: viêm cơ tim cấp, nhồi máu cơ tim, viêm tim toàn bộ… Nhồi máu cơ tim thường có cơn đau thắt ngực dữ dội hoặc có cảm giác nằng nặng trước ngực từ lâu, làm điện tâm đồ sẽ thấy có tổn thương điển hình.

Chảy máu cấp: do chấn thương vỡ tạng đặc biệt (gan, lách, thận) do xuất huyết nội như chảy máu dạ dày tá tràng, chảy máu do vỡ tĩnh mạch thực quản trong xơ gan, ho ra máu, vỡ thai ngoài dạ con…

Mất nước nhiều: do tiêu chảy, nôn liên tục.

Hạ đường huyết: do bị đói, dùng quá liều thuốc điều trị đái tháo đường. Bệnh nhân cảm thấy chân tay bủn rủn, chóng mặt, lờ đờ, buồn ngủ, trán vã mồ hôi.

Phản ứng thuốc hay sốc phản vệ: các loại kháng sinh penicilline, streptomycine, aspirin… Sốc có thể xảy ra tức thì hoặc muộn hơn vài giờ. Bệnh nhân thấy tê môi, người bứt rứt khó chịu, mắt có thể sưng húp, mạch nhanh. Không cấp cứu kịp thời có thể chết.

Sốc khi hút dịch: ở màng phổi, màng tim, màng bụng. Do hút tốc độ nhanh hoặc hút nhiều dịch trên bệnh nhân sẵn có cơ địa cường phế vị. Có khi chỉ mới chọc kim qua da, bệnh nhân đã thấy choáng váng, mặt tái nhợt, muốn nằm, vã mồ hôi trán, mạch nhanh.

Các trường hợp huyết áp hạ đột biến, cần xử trí rất khẩn trương để cứu sống người bệnh.

Huyết áp thấp liên tục: là huyết áp luôn luôn thấp hơn mức bình thường. Hiện tượng này thường gặp ở người có cơ địa huyết áp thấp và ở một số bệnh gây huyết áp thấp.

Huyết áp thấp liên tục có hai thể:

Huyết áp thấp tiên phát: do cơ địa hay do cấu tạo của cơ thể, thường xuyên có huyết áp thấp, nhưng không có trở ngại gì trong sinh hoạt. Loại này không có triệu chứng, không cần dùng thuốc điều trị, trừ trường hợp bị ngất, nhất là do lao động chân tay nặng.

Huyết áp thấp hậu phát: thường do một nguyên nhân nào đó gây ra. Bệnh nhân thấy mệt mỏi, thoáng ngất, ngón tay, ngón chân lạnh, có khi tím da. 8 nguyên nhân gây huyết áp thấp hậu phát gồm:

- Cơ thể suy mòn lâu ngày do ung thư, lao, đái tháo đường, xơ gan.

- Nhiễm trùng, nhiễm độc kéo dài.

- Thiếu máu mạn tính: Do giun móc, do các bệnh mạn tính.

- Suy tim: thường hạ huyết áp tối đa.

- Do uống thuốc điều trị huyết áp liều cao hay điều trị kéo dài. Cần kiểm tra huyết áp khi uống thuốc, nhất là loại thuốc methyldopa.

- Addison: suy vỏ thượng thận, sạm da, người mệt, chóng mỏi các cơ, không làm được các việc gắng sức.

- Bệnh suy giáp trạng: phù cứng, ấn lõm, mặt béo, môi dày, lưỡi to, các ngón chân, ngón tay cũng mập, chậm chạp, lười suy nghĩ. Huyết áp hạ, mạch nhỏ chậm.

- Do các bệnh thần kinh: Tabét, rỗng tủy sống…

Hạ huyết áp tư thế đứng: xảy ra khi đang nằm mà đứng dậy, huyết áp vẫn cố định hoặc giảm đi 10-20mmHg, còn huyết áp tối thiểu tăng lên. Người hạ huyết áp tư thế đứng là người có huyết áp bình thường, khi chuyển từ tư thế nằm sang tư thế đứng, huyết áp tối đa giảm quá 20mmHg và huyết áp tối thiểu bình thường hay hạ, tức là < 90mmHg/50mmHg.

Triệu chứng: khi đứng dậy, huyết áp hạ, chóng mặt, người loạng choạng, muốn ngất, tim đập nhanh. Thể nặng thì ngất, ngã gục xuống. Nếu người bệnh được nằm thì sẽ hồi phục bình thường.

Nguyên nhân: thường do dùng thuốc làm mất nước ngoài tế bào như dùng thuốc lợi tiểu, do chế độ ăn kiêng muối; Đang dùng thuốc hạ huyết áp, thuốc trầm cảm. Bị cắt đoạn thần kinh giao cảm thắt lưng, người giãn tĩnh mạch chi quá mức. Có thai, nhược cơ, thiếu máu... Hạ huyết áp thế đứng còn gặp ở người làm việc trong các ngành nghề phải đứng liên tục nhiều tiếng đồng hồ (đứng gác, đứng máy, làm tiếp viên).

Nguyên nhân gây hạ huyết áp

Hạ huyết áp là tình trạng huyết áp thấp hơn bình thường và có những triệu chứng của thiếu cung cấp máu tới tuần hoàn não: hoa mắt, chóng mặt, ngất xỉu… Những người có huyết áp thấp (90/60mmHg) nhưng vẫn sinh hoạt bình thường không phải là đối tượng bệnh lý.

Hạ huyết áp theo tư thế (orthostatic hypotension): Hoa mắt, chóng mặt, khi từ tư thế nằm chuyển nhuyết ápnh sang ngồi hoặc từ ngồi chuyển sang đứng. Có thể ngã hoặc ngất xỉu. Đo huyết áp: huyết áp tâm thu tụt > 20mmHg.

Huyết áp tâm trương tụt > 10mmHg

Cơ chế:
Cơ thể không kịp điều chỉnh huyết áp qua thần kinh giao cảm để đối phó với sự thuyết ápy đổi tư thế.

Thường gặp ở:

  • Người cao tuổi, người có vữa động mạch não nhiều.
  • Có thuyết ápi, nhất là vào những tháng cuối, đứng lâu cũng có thể tụt huyết áp.
  • Dùng  thuốc hạ huyết áp mạnh.
  • Suy tim nặng.


- Hạ huyết áp sau ăn:
Thường sau ăn 30-75 phút sau ăn no. Hiện tượng này được giải thích là do máu dồn về vùng tạng nhiều. Nơi khác như não, lại thiếu lưu lượng máu cần thiết.

- Hạ huyết áp sau khi đi tiểu, sau đại tiện, sau cơn ho, sau nuốt nghẹn: được giả thuyết là do kích thích mạnh thần kinh X. Người ta còn nhận thấy có trường hợp hạ huyết áp, ngất, thậm chí tử vong, sau khi thắt cà vạt hoặc sau khi bị bóp vùng xoang cảnh, do cơ chế nói trên.

- Thai nghén:
Người có thai, thường vào nửa sau của thai kỳ, khi đứng lâu nhất là ở chỗ đông người, có thể bị tụt huyết áp, xỉu. Cơ chế: Máu dồn về tử cung nhiều, máu lên não thiếu…

- Nhiễm khuẩn, nhiễm độc nặng.

- Mất nước (qua đường tiêu hoá: nôn, tiêu chảy; qua đường da: mất nhiều mồ hôi…). Chỉ cần mất 1% trọng lượng cơ thể đã có triệu trứng rồi.

- Thiếu máu nặng do mất máu.


- Bệnh nội tiết:
Thiểu năng tuyến giáp, huyết áp có thể thấp.

(St)