Nguyên nhân suy thận

Suy thận là bệnh thận mạn tính với tỷ lệ tử vong lên tới 90%. Có nhiều nguyên nhân gây suy thận như tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm cầu thận,...và một trong những thủ phạm hàng đầu là sỏi thận.

Các chứng bệnh dễ gây suy thận

Những bệnh lý ở hệ tiết niệu thường có triệu chứng ban đầu dễ nhận biết nhưng do chủ quan rất nhiều người bệnh không đi khám và điều trị sớm dẫn đến những hậu quả nặng nề. Một trong những bệnh lý đó là viêm thận, bể thận cấp tính. Đây là căn bệnh có nguy cơ dẫn đến suy thận, thận ứ mủ, hoại tử thận... nếu không được chữa trị kịp thời.

 Hình ảnh giải phẫu thận.
Bệnh nhân có thể tử vong vì viêm thận cấp tính

Các biểu hiện bệnh của chứng viêm thận, bể thận cấp rất đa dạng, dấu hiệu đầu tiên là các phản ứng của cơ thể trước tình trạng nhiễm khuẩn. Bệnh nhân đột ngột sốt cao, rét run, thể trạng suy sụp, môi khô nứt nẻ, lưỡi bẩn. Nếu sử dụng thuốc hạ sốt thì giảm  đi trong một khoảng thời gian ngắn (một vài giờ) sau đó cơn sốt lại bùng phát trở lại. Kèm theo sốt, bệnh nhân cảm thấy đau ở vùng sườn lưng, có thể đau một bên hoặc cả hai bên, thường là đau âm ỉ nhưng cũng có khi có những cơn đau dữ dội như có dao đâm, cơn đau lan xuống vùng bàng quang, thậm chí lan ra cả bộ phận sinh dục ngoài.

Cùng với tình trạng sốt cao, đau, nước tiểu của người bệnh thường đỏ, đục, có cảm giác nóng rát khi đi tiểu. Ngoài ra một số bệnh nhân còn có biểu hiện chán ăn, ăn không ngon, buồn nôn, nôn, bụng trướng, cơ thể mệt mỏi rã rời. Bệnh thường tiến triển tốt và hồi phục hoàn toàn nếu được điều trị sớm, đúng thuốc sau vài ngày sẽ cắt được cơn sốt, nước tiểu trong trở lại sau 1- 2 tuần. Nhưng nếu điều trị muộn hoặc không đúng thì bệnh dễ tái phát, chuyển thành mạn tính, suy thận, hoại tử núm thận, ứ mủ thận, nhiễm khuẩn huyết, tăng huyết áp... những biến chứng này có thể làm bệnh nhân tử vong.

Chính vì các biểu hiện của viêm thận, bể thận cấp rất đa dạng nên dễ làm nhầm lẫn với những triệu chứng viêm nhiễm khác. Do đó muốn chẩn đoán chính xác, bệnh phải tiến hành các xét nghiệm về công thức máu, hóa sinh máu, nước tiểu, siêu âm bụng, chụp Xquang, hoặc chụp cắt lớp bụng... để có những kết quả chẩn đoán chính xác và đưa ra phác đồ điều trị phù hợp.

Điều trị và phòng bệnh như thế nào?

Vi khuẩn là thủ phạm gây suy thận

         Nguyên nhân gây bệnh là do vi khuẩn, thường là vi khuẩn gram(-). Các vi khuẩn này thường xâm nhập vào đài bể thận theo đường tiết niệu, sinh dục, bắt đầu từ bộ phận sinh dục ngoài, niệu đạo, bàng quang, niệu quản rồi đến đài, bể thận. Đây là hiện tượng nhiễm khuẩn ngược dòng. Tình trạng viêm nhiễm cấp tính này cũng có thể do vi khuẩn theo đường máu, bạch huyết xâm nhập vào thận. Những yếu tố như sỏi thận, sỏi tiết niệu, viêm hoặc u tuyến tiền liệt, giao hợp không đảm bảo vệ sinh, phụ nữ có thai, đặt sonde bàng quang... là những điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập gây ra tình trạng viêm nhiễm cấp tính.

Đây là bệnh do vi khuẩn gây ra nên kháng sinh là biện pháp quan trọng được sử dụng điều trị, đặc biệt là các kháng sinh có tác dụng tốt đối với vi khuẩn gram(-) như augmentin, sentram. Nếu bệnh nhân có dấu hiệu suy thận càng phải thận trọng sử dụng các thuốc kháng sinh. Những phụ nữ có thai bị bệnh này càng thận trọng vì có nhiều loại thuốc kháng sinh không có lợi cho thai nhi. Điều trị triệu chứng theo từng trường hợp, nếu sốt cao, đau  phải dùng thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau, đặc biệt phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh để điều trị triệt để như sỏi thận, sỏi tiết niệu, các bệnh viêm nhiễm ở bàng quang, tuyến tiền liệt, âm đạo...

Các nguyên nhân viêm nhiễm có nguyên nhân một phần do vệ sinh thân thể không tốt, đặc biệt viêm nhiễm ở hệ tiết niệu - sinh dục. Thói quen tắm ao hồ, sông suối của nhiều người ở các vùng nông thôn rất dễ nhiễm khuẩn ở đường sinh dục, khi đó vi khuẩn sẽ ngược dòng tiến sâu vào bàng quang, tiết niệu, thận. Do vậy không nên tắm, dầm mình ở những nơi có nguồn nước không vệ sinh. Trong điều kiện bất đắc dĩ như đầm mình vì bão lụt sau đó cần tắm rửa sạch sẽ bằng nước sạch, rửa bộ phận sinh dục bằng nước muối pha loãng. Cần có thói quen vệ sinh trước và sau khi quan hệ tình dục, phụ nữ có thai càng đặc biệt chú ý vệ sinh cơ thể vì khi mang thai, những thay đổi ở môi trường âm đạo rất dễ bị nhiễm khuẩn, nhiễm nấm. Đối với các bệnh ở đường tiết niệu bị viêm nhiễm cần được điều trị triệt để. Khi đã mắc bệnh và trong quá trình điều trị người bệnh cần được chăm sóc tốt về mặt dinh dưỡng, nhằm tăng sức đề kháng cho cơ thể. Hằng ngày nên uống đủ nước, khoảng 1,5lít/ngày.

Tóm lại, viêm thận, bể thận cấp tính là bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng ngừa và điều trị khỏi nếu được phát hiện và xử trí kịp thời. Người bệnh khi có những triệu chứng trên cần đến khám và điều trị ở các chuyên khoa tiết niệu và nghiêm chỉnh thực hiện các chỉ định của thầy thuốc.          


Sỏi thận - nguyên nhân hàng đầu dẫn đến suy thận

Suy thận là bệnh thận mạn tính với tỷ lệ tử vong lên tới 90%. Có nhiều nguyên nhân gây suy thận như tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm cầu thận,...và một trong những thủ phạm hàng đầu là sỏi thận.

Sự hình thành của sỏi thận.

Sỏi thận hình thành do lượng nước tiểu quá ít hay nồng độ các chất khoáng tăng cao trong nước tiểu, lắng đọng ở thận, kết thành sỏi. Nếu sỏi nhỏ, có thể tự ra ngoài trong quá trình bài tiết nước tiểu. Nhưng với sỏi lớn, sự di chuyển của sỏi làm cọ xát, va chạm vào đường niệu, gây ra những cơn đau lưng, tiểu máu nếu sỏi ở thận, niệu quản. Nếu bị kẹt trong cuống đài thận, sỏi sẽ chèn ép làm bế tắc cuống đài thận, khiến đài thận dãn nở, tạo ra áp lực cao, tác động vào thần kinh thận và vỏ thận gây ra cơn đau quặn thận... Sỏi có thể làm bế tắc đường tiểu, tồn đọng nước tiểu, gây viêm nhiễm, lâu ngày sẽ dẫn đến xơ hóa thành đường tiểu, hậu quả là giảm chức năng co bóp đường tiểu, xuất hiện các lỗ rò ở bàng quang, niệu quản,... Chức năng thận sẽ bị suy giảm nếu sự hiện diện của sỏi trong thận, nhất là khi có sự kết hợp của viêm nhiễm, hậu quả là suy thận.

Những bệnh nhânsỏi thận là đối tượng có nguy cơ bị suy thận rất cao. Do vậy, bên cạnh các biện pháp điều trị dứt điểm sỏi thận người bệnh cần thường xuyên kiểm tra đánh giá chức năng thận để phát hiện sớm suy thận, điều trị kịp thời, tránh những hậu quả nặng nề. sỏi thận với kích thước nhỏ hơn 2cm thường được tán sỏi ngoài cơ thể. Ngày nay với sự phát triển của nội soi niệu quản cho phép lấy sỏi qua nội soi. Phương pháp mổ lấy sỏi qua da vẫn là một cách điều trị tương đối an toàn và hiệu quả với sỏi thận có kích thước lớn, làm giảm khả năng dẫn tới suy thận.


Cảnh giác với những dấu hiệu suy thận sớm





Các bệnh viêm cầu thận cấp, viêm ống thận cấp, viêm cầu thận mạn đều có thể tiến triển đến suy thận.
Vì vậy, bệnh nhân bị bệnh thận cần biết rõ những dấu hiệu suy giảm chức năng thận để kịp thời khám và điều trị nhằm cải thiện thời gian và chất lượng cuộc sống.
Suy thận có hai loại suy thận cấp và mạn tính. Suy thận cấp là sự suy giảm chức năng thận diễn ra nhanh chóng trong vài ngày. Suy thận cấp thường do: nhiễm khuẩn, chấn thương, sốc, suy tim, ngộ độc hoặc dùng thuốc quá liều. Việc điều trị bao gồm điều chỉnh lại các chức năng thận, chạy thận nhân tạo.
Suy thận mạn tính diễn ra thời gian dài hơn, gây ra bởi các bệnh mạn tính như tăng huyết áp kéo dài, dị tật bẩm sinh ở thận. Nếu các nguyên nhân được chẩn đoán và điều trị sớm có thể làm giảm tình trạng suy thận, tuy không thể hồi phục lại được chức năng thận đã bị suy yếu. Suy thận dẫn đến tình trạng nhiễm độc cho cơ thể bởi các chất thải trong máu không được loại trừ ra ngoài.

Những dấu hiệu suy thận thường rất mơ hồ

Đa số các triệu chứng suy thận là không rõ rệt, thường gặp là mất cảm giác ngon miệng, choáng váng và nôn. Những triệu chứng này có thể xuất hiện khi mắc các bệnh: cảm cúm, ngộ độc thức ăn, thức ăn không hợp khẩu vị, thiếu chất đạm hay bị nhược cơ. Người cao tuổi, bị tiểu đường, tăng huyết áp hoặc gia đình có người bị bệnh thận là những yếu tố dễ bị suy thận.
Dấu hiệu toàn thân: mệt mỏi (thường xuyên mệt hoặc chỉ mệt khi hoạt động thể lực), khó tập trung, giảm trí nhớ và mất ngủ… có thể do thiếu máu, do chức năng thận suy giảm nên không loại bỏ được các chất độc. Những triệu chứng này cũng xuất hiện vì các nguyên nhân khác, do đó cần thăm khám tỉ mỉ và làm các xét nghiệm.
Suy thận có thể do sự tích tụ các chất độc hại trong cơ thể: Có vị tanh trong miệng hoặc hơi thở hôi, choáng váng, buồn nôn, mất cảm giác ngon miệng, sợ ăn thịt, khó tập trung, bị ngứa.
Suy thận do tích tụ nước trong cơ thể: phù ở mặt, chân hoặc tay, khó thở, hụt hơi (do có nước ở trong phổi). Giữ nước biểu hiện bằng các triệu chứng: phù, tăng huyết áp và khó thở. Phù trắng, mềm, ấn lõm, đôi khi chỉ nặng hai mi mắt hoặc nặng hơn là phù to toàn thân, tăng cân nhanh chóng. Tăng huyết áp cả số tối đa và số tối thiểu. Sự mất cân bằng giữa lượng muối và nước uống, có thể làm nước tích tụ. Vì vậy, ở giai đoạn đầu, bệnh nhân phải ăn nhạt và dùng thuốc lợi tiểu. Nhưng liệu pháp này có thể không kéo dài được lâu và bệnh nhân phải lọc máu. Do đó bệnh nhân suy thận, khi thấy những triệu chứng trên cần phải đến khám để được điều trị phù hợp, kịp thời.
Suy thận có thể do thận bị tổn thương: đi tiểu nhiều hoặc ít hơn bình thường, nước tiểu có bọt hoặc bong bóng, đi tiểu ra máu.
Suy thận có thể do thiếu máu: mệt mỏi, yếu sức, luôn thấy lạnh, khó thở, lú lẫn…
Ngoài ra còn nhiều dấu hiệu xuất hiện ở bệnh nhân suy thận như: ngứa ngoài da, có thể là do hàm lượng phospho và canxi trong máu cao. Nhưng có một số bệnh nhân, mặc dù đã điều chỉnh hàm lượng phospho và canxi máu nhưng triệu chứng ngứa vẫn còn, có lẽ do kích thích thần kinh trong da, do sự tích tụ các độc tố bởi thận không có khả năng lọc. Đối với trường hợp này, phải tiến hành chạy thận nhân tạo để điều trị. Bệnh nhân có thể thấy đau ở chân tay, nếu xác định bệnh nhân bị đau dây thần kinh do thận thì cần phải lọc máu.

Làm gì để phát hiện và điều trị suy thận sớm?

- Bệnh nhân cần đi khám và kiểm tra để xác định chính xác suy thận khi các triệu chứng xuất hiện, vì các dấu hiệu của suy thận không rõ rệt và đặc thù. Nhiều trường hợp, việc điều trị chỉ dùng thuốc hoặc các biện pháp can thiệp khác mà không phải chạy thận nhân tạo. Chỉ định chạy thận nhân tạo phải dựa vào kết quả xét nghiệm và các triệu chứng bệnh. Nếu có kết quả xét nghiệm dương tính bệnh nhân phải được điều trị sớm mới có hiệu quả cao và tránh các biến chứng nặng có thể xảy ra.
- Bệnh suy thận thường không có nhiều dấu hiệu, bệnh nhân nên ghi lại các dấu hiệu của mình, theo dõi và báo cho bác sĩ khám bệnh biết.
- Cần tìm hiểu nhiều thông tin hơn để loại trừ bệnh và nếu có bị bệnh, khi được phát hiện sớm, có thể thực hiện các cách làm chậm tiến trình phát triển bệnh. Một phương pháp để làm chậm tiến trình phát triển bệnh hay ngăn chặn không thể xảy ra suy thận mạn, đặc biệt là khi bệnh mới bị ở giai đoạn đầu là kiểm soát huyết áp. Nên điều trị tích cực để giữ huyết áp ở mức trung bình (120/80mmHg) hoặc thấp hơn nếu bạn bị tiểu đường và/hoặc có protein trong nước tiểu.

(ST)
khi den benh vien, benh nhan se duoc lam nhung xet nghiem gi khi nghi la minh bi viem than, be than cap?
hơn 1 tháng trước - Thích (19)
toi bi di tieu rat nhieu da xet nghiem khong dai duong khong dai nhat moi ngay toi di khoang 30 lan nhung toi co thoi quen uong nhieu nuoc vay toi co the mac benh gi
hơn 1 tháng trước - Thích (5)
bạn dùng phần mềm snipil stool trong microsoft roi chup lại sau đó cắt ảnh nơi bạn cần là dc rồi. hihi
hơn 1 tháng trước - Thích (15)
cho em hoi. Bi nhuc o hong va met moi thi co phai khong a.
hơn 1 tháng trước - Thích (16)
Điều này không nói lên bạn đang bị suy thận, nếu có nghi ngờ bạn nên đi khám để biết tình hình sức khỏe của mình nhé
hơn 1 tháng trước - Thích (6)
tôi bị đi đái ra nước tiểu màu hồng kèm theo cảm giác mệt mỏi , đau thắt lưng và cạnh sườn , vậy có phải là suy thận ko
hơn 1 tháng trước - Thích (3)
Tôi hay bị đi tiểu có màu trắng đục thì có bị bệnh sỏi thận không vậy? Xin trả lời giúp tôi cách phòng và tránh bệnh thận.
hơn 1 tháng trước - Thích
Gửi hỏi đáp - bình luận