Những món ăn đặc sản của Thái Nguyên
Những món ăn đặc sản của Campuchia
Hướng dẫn làm thịt dúi - đặc sản của miền núi
Cua da hấp bia
Nếu có dịp về với đất Yên Dũng (Bắc Giang) vào cữ gió heo may về, thế nào bạn cũng sẽ được chiêu đãi một trong những món ngon và hiếm được chế biến từ cua da.
Có một loài cua sống trong các ghềnh đá ở đoạn sông Cầu chảy qua địa phận một số xã ven sông huyện Yên Dũng (Bắc Giang) như Đồng Việt, Đồng Phúc, Thắng Cương mà dân trong vùng quen gọi là “cua da”. Loài cua này rất đặc biệt ở chỗ chỉ thấy vào mùa lạnh, càng lạnh càng "ra" nhiều và chỉ xuất hiện trong thời gian khoảng hai tháng (tháng 10 và tháng 11 âm lịch) hằng năm.
Đây là một loài cua sông cỡ bằng con ghẹ, về hình thức cơ bản trông giống loài cua đồng, nhưng chân dài hơn, mình to gấp ba, bốn lần cua đồng và mang một số đặc điểm khác biệt với họ nhà cua. Đó là hai càng của giống cua này có hai lớp lông như rêu bám vào, yếm cua cũng có lớp diềm rêu điệu đà. Chính cái lớp lông rêu này đã khiến nhiều người băn khoăn về tên gọi của nó: “cua ra, cua da hay là cua gia?”.
Theo kinh nghiệm của người dân làng chài nơi đây, cua da có thể được chế biến thành nhiều món như: cua hấp bia, cua rang muối, cua chiên, cua giã nấu canh… Nhưng ăn cua da ngon nhất và đơn giản nhất là đem hấp bia.
Bỏ cua vào thùng, xả nước và xóc mạnh cho sạch. Mỗi con cua to nặng 100 - 200g, xếp vào nồi, rắc thêm chút bột canh, bỏ thêm xả, gừng, rót bia xâm xấp mình cua, đặt lên bếp. Để lửa thật nhỏ, đun li ti cho đến khi bia sôi lăn tăn thì bật lửa to cho sôi bồng lên là bắc ra. Lửa nhỏ để giữ cho càng và chân không bị rụng, đồng thời để gia vị ngấm, khử mùi tanh.
Khi cua chín có màu vàng cam rất hấp dẫn. Thịt cua ngọt, lớp vỏ ở chân và càng cua khá mềm, khi ăn không cần dùng đến kẹp như cua hay ghẹ biển. Ăn cua da chấm bột canh pha mù tạt kèm nửa quả chanh vắt vào thì không gì thú vị bằng.
Xôi trứng kiến Lục Ngạn
Xưa nay, người dân miền núi và trung du tỉnh Bắc Giang vẫn dùng trứng kiến để ăn và được xem như nguồn thực phẩm bổ dưỡng, có thể chữa bệnh. Tuy trong rừng có nhiều loài kiến, nhưng chỉ có một loài mà con người ăn được trứng của nó.
Trứng kiến sau khi đã làm sạch, để ráo nước. Hành củ phi thơm trong mỡ già rồi cho trứng kiến vào xào, nêm gia vị cho vừa ăn. Đảo đều khi thấy dậy mùi thơm béo của trứng kiến và mùi thơm của hành là được. Khi xôi chín tới, xới ra đánh tơi. Trộn đều với trứng kiến đã sao vàng rồi cho ra đĩa, rắc một chút hành củ phi vàng lên trên, ăn nóng. Món xôi trứng kiến sau khi làm xong có vị béo của mỡ hành, bùi bùi của trứng kiến, dẻo thơm của xôi nếp. Khi ăn nghe tiếng trứng kiến nổ lép bép trong miệng mới thấy hết cái thú vị của món ăn này.
Bất kỳ ai một lần được thưởng thức xôi trứng kiến cũng sẽ nhớ mãi. Có nhiều món làm từ trứng kiến nhưng thông thường người dân sử dụng trứng kiến để đồ xôi. Món xôi trứng kiến được làm từ gạo nếp nương, có thêm mỡ, hành và hạt tiêu, gia vị. Cách làm món xôi này đơn giản. Lấy gạo nếp vo sạch, đem ngâm trong nước ấm chừng 4-5 tiếng, sau vớt ra để cho gạo ráo nước, rồi cho vào chõ đồ. Khi thấy có mùi thơm của xôi, nếm vào miệng thấy dẻo, hạt gạo mềm, mọng là xôi được.
Bánh đa Kế
Có nhiều nơi trên đất nước Việt Nam cũng làm bánh đa, bánh tráng, nhưng bánh đa Kế vẫn luôn luôn tạo ra được một nét riêng, không thể lẫn vào đâu . Nó trở thành một thứ đặc sản đậm chất đồng quê Bắc Bộ.
Làng nghề bánh đa Kế nằm sát trục quốc lộ 1A Hà Nội-Lạng Sơn, bạn rất dễ dàng tìm đến vì chỉ cần đi đến đoạn đường thuộc địa phận thành phố Bắc Giang là đã có thể đến được làng làm bánh. Sản phẩm của làng vì thế mà cũng được phân phối đi nhiều nơi nhờ có đường giao thông thuận lợi.
Từ lâu nay bánh đa Kế đã trở thành món ăn dân dã yêu thích của nhiều người. Mỗi khi có dịp về Bắc Giang, chắc chắn bạn sẽ được quê hương Kinh Bắc này tiếp đãi món đặc sản này. Ngồi nhâm nhi trà xanh hoặc chè đắng vỉa hè và nhâm nhi bánh đa nướng Kế, rất bùi. Và khi ra về, bạn cũng khó có thể vô tình lướt qua những dãy dài bánh đa nướng tại chỗ, rất hấp dẫn. Đặc biệt là trong mùa lạnh miền Bắc, ngồi cạnh những chậu than nóng ấm và ăn bánh đa nướng nóng, cảm giác ấm cúng, thú vị.
Bánh hút Lục Ngạn
Bánh được làm từ bột gạo nếp, mật mía và rau cải cay (cải xanh). Quy trình làm bánh cũng rất đơn giản và dễ làm.
Rau cải cay rửa sạch giã nhỏ vắt lấy nước, nhào bột gạo nếp với nước lá cải cay sau đó nặn bánh (nặn tròn như bánh trôi), thả bánh vào chảo dầu ăn chiên tới khi vàng đều vớt bánh ra, nhanh tay thả vào nồi mật mía (nồi mật đun nhỏ lửa). Viên bột sẽ tự hút mật căng tròn bên trong. Vớt bánh ra và lăn qua một lớp bột gạo nếp.
Bánh có vị ngọt thơm của mật mía hòa quyện với gạo nếp rất thơm ngon. Người dân nơi đây chỉ làm món bánh này làm quà biếu người thân, với ý nghĩa luôn bao bọc che chở nhau như vỏ bánh, tuy mỏng nhưng không bao giờ để chảy mật ra ngoài.
Rượu Vân Hà thơm ngọt mền môi
Du khách đến với Bắc Giang, say cảnh đẹp Bắc Giang, cảm cái tình người Bắc Giang và những tinh hoa ẩm thực vùng Kinh Bắc và để đến khi chia tay vẫn còn lưu luyến, vẫn còn quấn quýt không muốn rời. Cái cảm mến ấy đã được Hoàng Tuấn Anh- GĐ Trung tâm TTXTDL Hải Phòng cảm nhận. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
Vân Hà, một địa danh nổi tiếng thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, nơi lừng danh với đặc sản rượu làng Vân, thứ rượu đặc biệt thơm ngon đã làm biết bao người “say” trải qua nhiều thế hệ. Để đến cả những người đã thưởng thức của ngon vật lạ khắp bốn phương như bậc Đế vương Lê Hy Tông cũng chẳng kiệm lời ban sắc phong ngợi ca bằng mỹ từ “Vân hương mỹ tửu”. Người làng Vân nói riêng và người Bắc Giang nói chung tự hào với nghề nấu rượu làng Vân bởi qua mấy trăm năm, dưới các triều đại phong kiến, thứ rượu này từng là lễ vật tiến vua và thường xuyên sử dụng thưởng ẩm trong những yến tiệc chốn cung đình.
"Vân hương mỹ tửu lừng biển Bắc
Chiến công Như Nguyệt rạng trời Nam"
Rượu làng Vân nổi tiếng thơm ngon nhiều người biết. Đối với những người sành rượu và ưa thích những loại rượu dân tộc thì rượu làng Vân là thức uống đặc sản vùng miền có thể sánh ngang với bất cứ một loại whisky hảo hạng nào trên thế giới bởi vị đậm đà đặc trưng của hương nếp cái hoa vàng, hương thơm nồng của tới 35 vị men thuốc bắc bí truyền, cái êm dịu của thứ rượu được chắt lọc và ủ kỹ để lọai bỏ hết cái sốc của mùi cồn và hàm lượng aldehyde. Còn đối với những người không sành rượu thì chỉ một lần thưởng thức rượu làng Vân cũng đủ để không thể quên được bởi cái cảm giác ngọt ngào như đang nhấm nháp một ly cocktail hoa quả thơm mát lấn át vị cay nồng, càng uống càng mềm môi, uống từ lâng lâng tới lịm dần và khi tỉnh dậy chẳng có cảm giác của người vừa say rượu.
Giữa một thế giới rượu tây ta đủ loại ngày nay, về đất Kinh Bắc, thưởng thức đặc sản rượu làng Vân cùng những người bạn nơi đây tôi thật sự cảm thấy mình “say”. Say không chỉ bởi những ly rượu mềm môi thơm nồng, say không phải vì những chiếc bình gốm đựng rượu quý không bao giờ cạn, mà “say” cái tình, cái nghĩa từ những cái bắt tay thật chặt, “say” những liền anh, liền chị đất Bắc Giang giàu lòng hiếu khách nức tiếng từ ngàn xưa qua những làn điệu quan họ say đắm gọi mời.
Có về đất Bắc Giang thưởng thức rượu làng Vân mới hiểu hết ý nghĩa của hảo từ “Mỹ tửu”, mới hiểu hết ý nghĩa của việc thưởng thức rượu bởi rượu không chỉ cần phải thơm, ngon mà cách ứng xử trong văn hóa uống rượu cũng cần phải đẹp, chẳng thế mà mấy trăm năm về trước các bậc vua chúa lại chọn rượu làng Vân làm thứ để thưởng ẩm trong chốn cung đình quyền quý, cao sang. Chẳng thế mà không chỉ các bậc tiền bối xưa dành lời ca tụng bằng hảo từ “Mỹ tửu” mà những nghệ sỹ nay cũng cảm tác nên những lời hát đắm say:
Sông Cầu đầy, sông Cầu lại vơi, rượu Vân một chén cả đời vẫn say.
Rượu làng Vân chẳng uống mà say, nhớ câu quan họ mơ ngày xa xôi.
Hoàng Tuấn Anh
Đến với Lục Ngạn, để được thưởng thức những sản vật nổi tiếng của địa phương như vải thiều, hồng không hạt, mật ong rừng, mỳ Chũ, được tham quan các di tích lịch sử văn hoá đã có từ lâu đời như đền Hả; đền Cầu Từ; chùa Am Vãi… nhưng có lẽ sẽ là thiếu sót nếu như không về xã Kiên Lao nghe hát dân ca soong hao của đồng bào dân tộc Sán Chí, thưởng thức rượu Kiên Thành và du ngoạn trên hồ Khuôn Thần- một trong những thắng cảnh thiên nhiên đẹp nổi tiếng ở Bắc Giang.
Ông Lâm Minh Sập, người dân tộc Sán Chí, hiện là Chủ tịch Hội Người cao tuổi của xã Kiên Lao giới thiệu với chúng tôi rằng: Dân tộc Sán Chí sống thành từng bản ở Kiên Lao, chiếm tới 70% dân số trong 7 dân tộc anh em cùng sinh sống ở xã. Trong quá trình lao động, họ đã sáng tạo những ca khúc dân ca trữ tình, đằm thắm. Loại hình dân ca này rất phong phú, có sức sống từ lâu đời với các lối hát, như hát ru, hát ví, ngâm thơ, đối đáp nam nữ…thể hiện tình cảm giữa con người với con người, con người với thiên nhiên. Ông Ninh Đại Hải – người dân tộc Sán Chí đã nhiều năm say sưa nghiên cứu dân ca của dân tộc mình và sưu tầm, lưu giữ nhiều lời ca, làn điệu truyền thống cho chúng tôi biết: hát dân ca Sán Chí không có nhạc đệm và có nhiều hình thức như: hát ban ngày (Chục Côộ) - hát giao duyên hay hát ghẹo, hát ban đêm (Cnắng Côộ), hát đám cưới (Cháu Côộ) và hát đổi danh (Zoóng Hôồ). Trong đó, hát “Cnắng Côộ” là loại hình phong phú nhất của dân ca Sán Chí, nên khi nói đến dân ca Sán Chí đồng bào thường gọi theo tên chung là “Cnắng Côộ”.
Sẽ còn gì thú vị bằng được du ngoạn ngắm cảnh hồ Khuôn Thần và nghe hát dân ca Sán Chí. Hồ Khuôn Thần rộng 240ha. Nơi đây được thiên nhiên ưu ái ban cho vẻ đẹp thanh bình. Mặt hồ rộng, nước trong xanh quanh năm, không khí thoáng đãng, trong lành mát mẻ, xung quanh hồ là núi, đồi với những rừng thông, vườn vải xanh tốt quanh năm. Lòng hồ có 5 đảo nhỏ được trồng thông xanh có tuổi từ 15-20 năm. Bao bọc quanh Hồ là rừng Khuôn Thần có diện tích khoảng 800 ha. Tại đây, du khách có thể thuê thuyền máy để du ngoạn ngắm cảnh hồ, lên chòi quan sát của kiểm lâm để phóng tầm mắt ngắm toàn cảnh khu vực hồ và những rừng thông xanh mát của Lục Ngạn từ trên cao. Rồi có thể ghé thăm các đảo nổi trên hồ như đảo: tình yêu, đảo hẹn hò, đảo….Nhiều cặp uyên ương cũng đã chọn nơi đây là nơi chụp ảnh kỷ niệm sự kiện trọng đại của cuộc đời…
Sẽ là thiếu sót nếu đến với vùng đất này mà không thưởng thức rượu Kiên Thành.Theo nhiều người thì ngay từ thời vua Lý Nhân Tông, vị quan đem gạch từ Thăng Long về Động Giáp để xây lăng mộ cho Phò mã và Công chúa đã được biếu tặng những hũ “Nùng tửu”. Từ đó, “Nùng Tửu” thường dùng để tiến vua, đó chính là rượu của vùng đất Kiên Thành ngày nay. Xã Kiên Thành giáp ranh với xã Kiên Lao, người dân ở đây chủ yếu là người dân tộc Nùng. Người Nùng vốn thật thà, cởi mở và chân tình, điều này được kiểm chứng khi chúng tôi tiếp xúc với chị Tô Thị Lành để tìm hiểu về cách chưng cất rượu Kiên Thành- thứ rượu thơm, ngon nổi tiếng vùng Luc Ngạn. Chị Lành cởi mở cho biết: Để chưng được rượu Kiên Thành gồm rất nhiều công đoạn công phu từ cách làm men, chọn gạo, ủ cơm đến tưng cất: Men rượu Kiên Thành được làm từ nhiều thứ lá và rễ cây lấy từ trên núi về vò lấy nước ủ men. Loại gạo được chọn nấu rượu cũng phải là loại gạo bao thai hồng không được xay trắng làm mất lớp gạo nức bên ngoài mà chỉ xay cho hết vỏ chấu và nấu thành cơm. Cơm phải được nấu bằng củi chứ không nấu bằng than hay bếp gas và chỉ nấu vừa chín tới, không được cứng cũng không được quá nát. Cơm nấu xong để nguội rồi mới trộn với men đã xay nhỏ rồi đem hỗn hợp trên cho vào các chum vại sành, sứ ủ khoảng ba, bốn ngày cho đến khi ngấu men sau đó đổ nước vào ngâm khoảng hai, ba ngày rồi mới đem ra chưng cất thành rượu. Người Nùng ở Kiên Thành vẫn duy trì kiểu nấu rượu truyền thống đó là sử dụng một nồi bằng đồng hoặc nhôm, một chõ nấu rượu, một chiếc chảo bằng gang hoặc nhôm, một mảnh gỗ đục hình con ba ba, một ống nứa và một chiếc chum hoặc can để đựng lấy rượu. Thông thường thì một kg gạo tương ứng với 1 lít ruợu.
Theo nhiều người thì ngay từ thời vua Lý Nhân Tông, vị quan đem gạch từ Thăng Long về Động Giáp để xây lăng mộ cho Phò mã và Công chúa đã được biếu tặng những hũ “Nùng tửu”. Có lẽ, ai đã một lần đến với Lục Ngạn và được thưởng thức đặc sản rượu Kiên Thành chắc sẽ không bao giờ quên được hương vị của rượu nơi đây. Và cũng chính vì hương vị đặc trưng của núi rừng Lục Ngạn mà mỗi người chúng tôi tới đây đều mang một vài lít rượu về làm quà cho người thân, âu cũng là một cách quảng bá cho một đặc sản của núi rừng nơi đây.
Đ. Lâm
Không biết món gỏi cá Mè ở vùng quê tôi có từ bao giờ? Chỉ biết ở cái làng Lý Viên - Hiệp Hòa, một vùng quê thuần nông ven sông Cầu, hồ, ao nhiều tôm, cá lắm. Bọn chúng tôi từ bé đã biết mò cua, bắt cá, đứa nào cũng bơi giỏi, ngụp lặn dưới ao hồ, nước trong, sóng gợn. Tôm, cá nhiều đủ loại, những con cá Mè to nấu cháo béo ngậy. Những con chép vàng ươm, rán lên thịt cá rắn đanh, thơm nức, nào trê om, cá riếc kho với tương gạo nếp, măng tre, riềng... ăn cứ muốn ngậm. Rồi gỏi cá Mè… những món ăn dân dã ấy ở vùng quê sông, nước thực như cơm ăn, nước uống hàng ngày.
Duy chỉ có món gỏi cá Mè thì không phải là thức ăn hàng ngày và chẳng phải bữa nào cũng thường xuyên ăn được. Thỉnh thoảng dăm bữa, nửa tháng mới tụ tập nhau đánh nhắm, bởi sự cầu kỳ chế biến của món ẩm thực này. Một hai người thì ít khi bày vẽ, ăn gỏi là phải đông vui, ít nhất cũng dăm bảy người. Tôi biết làm món khoái khẩu này từ khi còn nhỏ tuổi, mỗi khi cụ chánh, ông nội tôi mời bạn ở các tổng hoặc chi huyện về thưởng thức gỏi cá, tôi đã biết theo bác, theo chú đi đào riềng, lấy lá, đã được xem chế biến, rồi được các cụ hướng dẫn cách làm. Đến khi trưởng thành, lớp tuổi anh em tôi ai cũng tay dao, tay thớt thành thục, để rồi đến lượt bọn tôi biết giao du mời khách thì lớp đàn em, con cháu đứa nào cũng giỏi chế biến món ăn này.
Nói ăn cá Mè sống, ai chưa được thưởng thức thì sợ, nhưng đã một lần ăn thì nhớ mãi. Đã có lần anh em bạn bè tôi ở Viện Khảo cổ, ở Bảo tàng Quốc gia và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Nguyên…hẹn về chơi mà chỉ có một yêu cầu là được thưởng thức món ăn dân dã này mà giờ đây họ nói là ẩm thực đặc trưng vùng thôn dã quê tôi. Chị Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc cứ rón rén chưa dám ăn, nhưng đã thử một miếng rồi thì lại muốn ăn hai, ba miếng, rồi từ sợ thành sung sướng khi thấy mùi vị thơm ngon của cá, của lá, của gia vị rất đặc trưng. Mỗi lần nhắc đến quê tôi chị lại nhớ đến món gỏi cá Mè. Không biết ai giới thiệu mà vào dịp này năm 2011, nhóm phóng viên của S Việt Nam về gặp tôi và nhất định đòi về quê để làm chương trình gỏi cá Mè. Chương trình phát lên VTV1 thế là bạn tôi ở Đức, ở Pháp, ở Nga gọi điện về cứ đòi tôi cho ăn món gỏi cá Mè thế mới biết “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”.
Anh, em phóng viên có một kịch bản thật chi tiết và yêu cầu tôi giới thiệu cả quy trình chế biến và thưởng thức món “Ẩm thực” đặc trưng. Họ thì nói quan trọng lên thế chứ cái món dân dã vùng quê tôi ai chả biết làm. Tôi nói với anh em phòng viên cứ theo tôi đi bắt cá đã. Cá tươi thì làm gỏi mới ngon. Mà ngon nhất là loại cá mè nhỏ khoảng 3 lạng 1 con. Cá phải câu hoặc đánh lưới chứ tát ao mà bắt cá thì có mùi bùn. Thế là một ao rải lưới, một ao thật im ắng tôi câu bằng bộ lưỡi câu chùm (lưỡi lục) mới bắt được cá Mè. Ao sạch, cá sạch nuôi tự nhiên không tăng trọng. Chỉ một mẻ lưới vớt lên đã có cả chục cân, con nào cũng màu trắng ánh bạc, nhìn thật là vui mắt. Cá đem về được rửa sạch, bóc bỏ mang, vớt ra rổ cho ráo nước rồi mới đến quy trình chế biến. Từ lúc này cá không được rửa vào nước mà dùng giấy bản để thấm khô. Đầu cá được cắt ra để riêng làm món hạt. Mình cá đánh vảy sạch sẽ rồi gói từng con vào giấy bản, khi đã lột hết lớp da, cá không mổ, dùng dao cắt ở lớp bụng độ 3 phân để riêng và cũng được thấm bằng giấy bản. Phần mình cá khi đã bỏ hết ruột thì mỗi con cũng được gói thấm như vậy, sau đó dùng dao sắc lạng thịt ở hai bên mình cá, khi lạng phải từ đuôi cá lạng lên, những miếng thịt nạc ấy lại gói vào giấy, còn lại phần xương sống cá, cắt lấy đoạn giáp phía bụng cá có cả thịt và xương, chỉ bỏ phần xương sống. Tất cả được gói thấm bằng giấy bản nhiều lần để đến khi thái, thịt phải khô, ráo, nhìn như miếng thịt lợn thăn. Khi thái dao phải sắc bén, phần thịt được thái mỏng, to bản, còn phần bụng và phần xương lẫn thịt dùng gọng dao dần cho nhỏ rồi thái nhỏ như thái nem. Thái xong lại được gói cẩn thận để chống ruồi, bọ đậu vào.
Công đoạn hai là nấu hạt. Tất cả đầu cá được băm nhỏ (như xay bột) nhưng không được xay, làm thế thịt cá sẽ chín trước khi chế biến mất vị ngon. Dùng nước riềng, tương, mẻ, muối vừa đủ khi nấu hạt thì bếp rất nhỏ lửa, quấy đều liên tục bao giờ hạt đặc như bánh đúc, múc ra bát có thể lật được như bánh đúc thì hạt mới ngon. Đây là món chấm rất đặc trưng của gỏi cá, không có nó không thành gỏi cá.
Công đoạn thứ ba là lấy lá. Các cụ xưa trồng các loại cây ở vườn nhà, bờ ao, bờ dậu toàn loại cây có vị thuốc, khi ăn gỏi phải có những loại lá này. Có đến 15 loại lá. Loại có chất kháng sinh, loại có vị thơm, loại làm thuốc nam như: lá Mơ, Cúc tần, lá quả sung, lá Vọng canh, lá cây Lúc lác, đinh lăng, khế chua, chuối xanh, tỏi, ớt, tía tô, lá lốt, sương sông.. lá hái về phải lau, không được rửa, nếu rửa thì phải dùng quạt, quạt cho khô nước. Gia vị là món hạt, muối trắng, ớt chỉ thiên, ớt ăn riêng và được giã nhỏ trộn muối, tỏi sống…
Khi ăn, món thịt, xương cá đã thấm khô dùng thính gạo rang hoặc bánh đa quê giã nhỏ như bột xay, riềng giã mục trộn vào cá cho thơm mới bày ra đĩa khi ăn dùng lá mơ to hoặc lá sung để gói. Cá được đặt vào lá, xúc một ít hạt (1 cùi rìa con) muối ớt, tỏi vừa vặn và các loại lá khác, tùy mỗi miếng và sở thích của mỗi người mà dùng loại lá để cùng ăn với gỏi. Miếng gỏi như vậy thì chỉ thấy mùi thơm, không hề thấy có mùi tanh mặc dù là cá Mè ranh. Tất cả các loại lá, hạt, gia vị làm cho gỏi cá có mùi vị đặc trưng, chỉ có ăn mới cảm nhận hết cái mùi vị thơm ngon, bùi…rất thanh tao của món gỏi cá.
Bất cứ ai một lần được thưởng thức món gỏi cá ở Lý Viên – Hiệp Hòa thì không ai không muốn trở lại lần thứ hai, thứ ba để hưởng cái không khí trong lành của đồng quê, cái hương vị gỏi cá đặc trưng riêng biệt của vùng này. Trong hành trình du lịch cộng đồng chắc chắn đây sẽ là điểm đến của du khách gần xa. Vì lẽ đó mà năm 2012, trong kỷ lục Guines ẩm thực Việt Nam có 10 loại thì Bắc Giang được bình chọn 02 loại: Gỏi cá mè và vải thiều Lục Ngạn./.
Ngô Văn Trụ
Theo dulichbacgiang.gov.vn
Những món ăn đặc sản của SaPa
Những món đặc sản của Đà Lạt
Các loại bánh đặc sản Hà Nội
Những món đặc sản Thanh Hóa
Món ăn đặc sản Quảng Ngãi
(ST)