Phân biệt cá ngựa đực và cái

Phân biệt cá ngựa đực và cái. Những hiểu biết cơ bản về đặc tính sống, sinh sản của loài cá ngựa. Cách phòng ngừa bệnh ở cá ngựa.

Đặc tính sinh học của cá ngựa

Cá ngựa có hình dáng cong queo, gấp khúc, phần đầu và phần ngực gần như vuông góc; mồm hình ống, ngực và bụng lồi (do 10-13 chiếc xương cong ra tạo thành), đuôi dài, nhỏ và cuộn khúc 4 vòng, không có vây bụng và vây đuôi.

Đầu và thân cá đực có nhiều gai, cơ thể màu lá cọ, ở một số con có thể có chấm nhỏ màu nâu, bụng cá (phần gần đuôi) có túi sinh dục

Cá ngựa cái khác cá ngựa đực ở điểm không có gai, da sáng và nhẵn.

Kỹ thuật ương giống và nuôi cá ngựa nhân tạo

Đầu tiên, chọn cá ngựa bố mẹ có độ tuổi từ 1 đến 2 năm, cơ thể to, vóc dáng khỏe mạnh, không bị bệnh tật.

Cá ngựa mẹ có phần bụng phình to, khoang bụng rộng. Cá ngựa bố cơ thể dài, to, túi trước bụng phát triển hoàn chỉnh.

Thông thường, thả nuôi riêng rẽ cá ngựa bố mẹ với mật độ 20 con/m3. Hằng ngày, tiến hành cho cá ăn thức ăn tươi sống, giŕu chất dinh dưỡng từ 3 đến 4 lần. Sau một thời gian vỗ béo, khi cá ngựa bố mẹ đă thành thục, người ta duy trì nhiệt độ nước ổn định trong khoảng >20oC, tiến hành phối giống với tỷ lệ là 1 con đực, 1-2 con cái.

Cá ngựa thường giao phối vào sáng sớm hoặc chập tối. Vào thời kỳ này, cá bố mẹ ăn ít, cơ thể nhạt màu hơn trước. Ban đầu cá đực và cá cái đuổi nhau, chúng tiến lại gần và áp bụng vào nhau, cá đực sẽ mở rộng miệng túi đón lấy trứng từ lỗ sinh dục của cá cái, đồng thời phóng tinh dịch để thụ tinh cho toàn bộ số trứng đó. Trứng đă thụ tinh sẽ phát triển trong túi của cá đực. Ngay sau khi giao phối, túi của cá ngựa đực nhỏ, trong và rất mềm. Càng về sau, do các hợp tử phát triển, túi ngày một to lên, màu sắc sẫm lại, túi có trạng thái một khối rắn chắc. Trong suốt thời gian ấp trứng, cá ngựa đực rất ít vận động, chúng có xu hướng lặn sâu xuống đáy bể, ăn ít. ở thời kỳ này, cá ngựa bố hoŕn toàn tập trung vào công việc bảo vệ và nuôi dưỡng phôi thai.

Thời gian phát triển từ hợp tử thành cá ngựa con lâu hay chóng phụ thuộc phần lớn vào nhiệt độ môi trường nước. Nếu nhiệt độ dao động trong khoảng 20-22oC, thời gian này sẽ là 16 đến 18 ngày, ở nhiệt độ 28-30oC, thời gian này chỉ còn 10-12 ngày.

Rất dễ nhận thấy biểu hiện "sắp sinh" của cá ngựa đực: Màu sắc của túi sinh dục chuyển từ màu nâu vàng (hoặc màu nâu nhạt) sang màu nâu sẫm, túi không còn cứng và chắc nữa mà trở nên mềm và lỏng hơn, miệng túi mở rộng.

Thời gian "chuyển dạ" chỉ khoảng mấy phút đến mười mấy phút, nhưng nếu bị ảnh hưởng bởi một số nguyęn nhân nào đó thì thời gian "chuyển dạ" thậm chí kéo dài từ một đến ba này.

Cá bố sinh xong phải được tách khỏi bể, để lại cá con vŕ tiến hành nuôi dưỡng. Nếu việc tách cá bố không được tiến hành kịp thời, chúng sẽ ăn thịt chính các con của mình.

Điều cần chú ý lŕ: Trong điều kiện nuôi nhân tạo, có rất nhiều cá ngựa bố mẹ không phát dục. Tỉ lệ cá ngựa chấm và cá ngựa đen có khả năng sinh sản thường lŕ 20-80%.

Cá ngựa con mới sinh đă có thể ăn các loại ấu trůng nhỏ như trùng bánh xe. Khi chiều dài cơ thể của cá ngựa con đạt 5-6cm, tiến hành cho ăn tôm nhỏ. Với chiều dài 10cm, ngoài việc ăn tôm nhỏ, cá ngựa cần được bổ sung thęm cá tươi (dưới dạng các mẩu vụn).

Cần tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc: Cho cá ăn ít nhưng nhiều lần, để tránh việc cá bị đói hoặc ngược lại bị chết do bội thực.

Trong quá trình nuôi dưỡng, phải thường xuyên làm vệ sinh bể nuôi, loại bỏ thức ăn thừa và các chất thải, đảm bảo chất nước luôn trong sạch, duy trì độ nhìn thấu của nước ở mức 35-40cm, tránh ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp.

Nếu nhiệt độ môi trường tăng, phải chú ý lượng dưỡng khí hoà tan trong nước để đảm bảo cá vẫn đủ ôxy để thở. Định kỳ tiến hŕnh thay nước. Mùa hè, một đến hai ngày thay nước một lần.

Khi chuyển cá sang bể khác, động tác phải hết sức nhẹ nhàng, không được gây thương tổn cho cá, dù là nhỏ nhất, vì khi đó cá rất dễ nhiễm bệnh
 

Cá ngựa đực – những bà mẹ thiên bẩm


Cá ngựa đực là những “bà mẹ” có thực trong tự nhiên khi vai trò làm cha của chúng còn bao gồm cả trọng trách mang thai.


Mặc dù chuyện cá đực đóng vai trò trụ cột trong gia đình là hoàn toàn bình thường, nhưng việc con đực mang thai lại là một quá trình phức tạp chỉ có duy nhất trong gia đình cá Syngnathidae, bao gồm cá chìa vôi, cá ngựa và rồng biển. Nhà nghiên cứu sinh học tiến hóa Adam Jones cùng cộng sự thuộc đại học Texas A&M đang tiến hành tìm hiểu bằng cách nào mà cấu trúc cơ thể cần thiết cho quá trình mang thai có thể tiến hóa. Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ có được cái nhìn sâu hơn về cơ chế tiến hóa chịu trách nhiệm với những biến đổi trong cấu trúc của các loài qua thời gian.

Jones cho biết: “Chúng tôi sử dụng cá ngựa và họ hàng của chúng nhằm hướng đến một trong những lĩnh vực nghiên cứu thú vị nhất của sinh học tiến hóa hiện đại: nguồn gốc của các đặc điểm phức tạp. Chiếc túi ấp trên cơ thể cá ngựa đực và cá chìa vôi nơi con đực giữ trứng trong quá trình giao phối là một đặc điểm thú vị có ảnh hưởng lớn đến ngành sinh học nghiên cứu các loài do khả năng mang thai của con đực đã thay đổi hoàn toàn động lực của hành động giao phối”.

Một cặp cá ngựa. (Ảnh: PracticalFishKeeping)

Khi cá ngựa giao phối, con cái đưa bộ phận đẻ trứng của nó vào túi ấp của con đực (cơ quan nằm bên ngoài cơ thể con đực) sau đó đẻ trứng chưa được thụ tinh vào túi ấp. Con đực sau đó xuất tinh vào túi ấp để thụ tinh cho trứng. Jones cho biết: “Nếu cái túi chỉ đơn giản là nếp da để con cái đẻ những quả trứng bình thường vào đó rồi những quả trứng phát triển bên trong cái túi thay vì lớn lên ở thềm đại dương thì chẳng có gì là thú vị. Nhưng việc con đực mang thai ở một số loài cá ngựa hay cá chìa vôi xét về mặt chức năng sinh lý còn phức tạp hơn thế nhiều”.

Sau khi con cái đẻ trứng chưa thụ tinh vào túi con đực, vỏ ngoài của trứng vỡ ra. Tinh trùng của con đực sẽ bao quanh trứng. Sau khi thụ tinh, con đực làm nhiệm vụ điều khiển môi trường sống của phôi trong túi ấp. Nó sẽ giữ máu lưu thông quanh phôi, kiểm soát nồng độ muối trong túi ấp, cung cấp ôxi và chất dinh dưỡng cho quá trình phát triển của con non qua một cơ quan giống nhau thai cho đến khi sinh.

Việc con đực mang thai có một ý nghĩa thú vị về vai trò của giới trong giao phối. Do ở đa số các loài, con đực thường tranh giành nhau để đến với con cái nên chúng ta thường thấy các đặc điểm tiến hóa thứ yếu thể hiện giới tính của con đực, ví dụ như chiếc đuôi của loài công hay chiếc gạc ở loài hươu. Nhưng ở một số loài cá chìa vôi, vai trò của hai giới bị đảo ngược. Do con đực có thể mang thai còn kích cỡ của túi ấp cũng có giới hạn nên con cái cạnh tranh với nhau để giành được con đực đang còn “cô đơn”. Vì vậy đặc điểm giới tính thứ yếu (ví dụ như màu sắc tươi sáng chẳng hạn) lại tiến hóa ở cá cái thay vì cá đực.

Jones nói: “Theo quan điểm nghiên cứu, điều này rất thú vị vì không có mấy loài trong tự nhiên mà vai trò giới tính lại bị đảo ngược. Đây là cơ hội hiếm có để tìm hiểu lựa chọn giới tính trong điều kiện vai trò bị đảo ngược”.

Để tìm hiểu hành vi giao phối ở cá ngựa và cá chìa vôi, phòng thí nghiệm của Jones đã sử dụng chỉ thị phân tử trong phân tích pháp lý vai trò làm mẹ để tìm ra con cá ngựa cái nào là mẹ của những đứa con trong bụng cá ngựa đực. Nhóm nhận thấy rằng cá chìa vôi giao phối theo phương thức “đa phu cổ điển”, con đực nhận trứng từ một con cái nhưng con cái có thể giao phối với nhiều con đực. Do những con cái trông hấp dẫn có thể giao phối nhiều lần nên phương thức giao phối này gây ra sự cạnh tranh gay gắt trong việc lựa chọn để giao phối. Cá chìa vôi cái đã tiến hóa những đặc điểm giới tính thứ yếu rất quan trọng.

(Ảnh: snapscot)

Tuy nhiên, cá ngựa lại là loài sống chung thủy theo đôi trong suốt một mùa sinh sản. Đối với phương thức này, nếu tỉ lệ giới tính là tương đương thì sẽ không có cạnh tranh giữa các con cái vì số lượng con đực đã đủ để kết đôi. Nên ở loài cá ngựa không có những đặc điểm giới tính thứ yếu quan trọng tiến hóa giống như cá chìa vôi.

Việc mang thai của con đực cũng gây ra xáo trộn trong hành vi liên quan đến giới tính. Jones cho biết: “Cá ngựa cái có những hành vi cạnh tranh vốn là đặc trưng của con đực, trong khi cá đực lại ‘kén cá chọn canh’ – một đặc trưng của những con cái”. Nhóm thí nghiệm của ông cũng nghiên cứu các bước tiến hóa dẫn đến hành vi đảo ngược và vai trò của hooc-mon trong biến đổi này.

Đồng thời nhóm còn nghiên cứu túi ấp ban đầu tiến hóa ở cá ngựa và cá chìa vôi như thế nào. “Một câu hỏi lớn về sinh học tiến hóa đó là bằng cách nào một cơ quan lạ thường như thế lại có đủ các gen và các bộ phận cần thiết để hoàn thành chức năng. Chúng ta đang cố tìm hiểu phương thức mà túi ấp cũng như các gen cần thiết cho quá trình mang thai của con đực hình thành trong suốt giai đoạn tiến hóa”.

Một trong những điều thú vị về túi ấp của con đực chính là dường như nó tiến hóa độc lập nhiều lần. Có hai nhóm cá ngựa và cá chìa vôi chính: ấp thân và ấp đuôi. Cấu trúc túi ấp cũng tiến hóa độc lập ở hai nhóm.

Một khía cạnh khác mà phòng thí nghiệm của Jones nghiên cứu là các bước tiến hóa hình thành nên hình dạng chung có một không hai của loài cá ngựa. Jones cho biết: “Bằng cách nào chúng ta tìm hiểu một loài khác thường như các ngựa từ những loài cá có hình dạng thông thường? Chắc chắn có rất nhiều bước tiến hóa tham gia vào quá trình này”.

John giải thích rằng bước đầu tiên trong quá trình tiến hóa chính là bước kéo dài thân – nhóm hiện đang nghiên cứu bước này. Bước thứ hai chính là sự hình thành thêm các đặc điểm cấu trúc độc nhất vô nhị mà loài cá ngựa sở hữu như biến đổi thành hình dạng đặc trưng. Đầu của loài cá ngựa không giống đa số các loài cá khác. Nó vuông góc với cơ thể của chúng. Cá ngựa còn có chiếc đuôi có thể cầm nắm được, có nghĩa là không giống các loài cá khác chúng sở hữu một chiếc đuôi cầm được đồ vật.

“Đây là tất cả những biến đổi thú vị. Chúng tôi rất hứng thú nghiên cứu phương thức những đặc điểm lạ thường xuất hiện và các bước tiến hóa hình thành nên các đặc điểm đó. Về cơ bản, chúg tôi hy vọng có được những hiểu biết sâu hơn về một số cơ chế tiến hóa giúp hình thành nên những biến đổi đáng kinh ngạc trong các cơ quan của sinh vật xảy ra trong suốt lịch sử của sự sống trên trái đất”.

Phòng trừ dịch bệnh

Cá ngựa là loài có khả năng đề kháng kém, rất dễ nhiễm bệnh. Với bất cứ một sự thay đổi nŕo của môi trường sống, chúng đều khó thích nghi vŕ trở nên yếu hơn.

Các bệnh thường gặp ở cá ngựa do chuyên gia Trung Quốc đúc rút được trong quá trěnh nuôi là: Bệnh đầy hơi trướng bụng, bệnh phồng bong bóng, viêm ruột, mù mắt do thiếu ánh sáng...

Trong công tác phòng trừ bệnh tật phải coi trọng việc phòng ngừa, tránh để phát sinh thành bệnh vì việc chữa trị vừa tốn kém vừa ít hiệu quả.

Việc phòng ngừa bệnh tật được thực hiện bằng một số công việc cụ thể như: Theo dõi thường xuyên nhiệt độ nước trong bể, ánh áng, độ mặn, lượng dưỡng khí hòa tan, độ pH, mật độ thả nuôi. Ngoài ra, tiến hành vệ sinh bể bằng các dụng cụ chuyên dụng.

Khi cá đă bị mắc bệnh thì phải dùng thuốc hoặc CuSO4 để chữa bệnh

(St)

Nuôi cá ngựa vằn
Kỹ thuật nuôi cá ngựa cảnh
Kỹ thuật nuôi cá cảnh nước ngọt
Nuôi cá cảnh theo phong thủy
Kỹ thuật nuôi cá cảnh nước mặn