Phong tục cưới hỏi của người Bình Định

Phong tục cưới hỏi của người Nhơn Thành, huyện An Nhơn nói riêng, Bình Định nói chung ngày xưa được tổ chức khá kỹ theo 7 bước: Lễ thăm nhà, Lễ sơ vấn (lễ nói), Lễ hỏi, Lễ đại nạp, Lễ cưới, Lễ nghinh hôn (rước dâu) và Lễ hồi dâu.

 

Ở tất cả các lễ trên, trừ lễ hồi dâu nhà trai phải mang đến nhà gái một cặp rượu, một cặp trà, trầu cau và một góc tư rượu trắng, các rượu trà trên sẽ được nhà gái đặt trang trọng nơi bàn thờ như là một sự chấp nhận hôn nhân, còn góc tư rượu trắng thì được rót mời đôi bên khi hành lễ.

Xong lễ, nếu còn rượu thì phải sang vào hũ của nhà gái rồi xách chai không về chứ không được xách chai còn rượu. Ngoài ra nhà trai còn có tiền bỏ xiểng để nhà gái làm mâm cổ thết đãi. Riêng ngày đại nạp, ngày cưới còn có các lễ vật như: chục bánh tét, đầu heo, bò, gà cồ và nữ trang, tiền cho cô dâu mua sắm chuẩn bị đám cưới.

Trong các lễ trên, trừ lễ sơ vấn và lễ thăm nhà còn lại đều có từ 2 đến 6 bé gái 10-15 tuổi bưng quả bánh trái (tùy theo nhà giàu nghèo mà số lượng quả có khác nhau). Khi nhà trai ra về, nhà gái phải lại quả, tức là bỏ lại một phần nhỏ lễ vật trong các quả (lúc bấy giờ đã trống). Ngày nay, người ta không còn lại quả bằng lễ vật mà lại quả bằng tiền như là để cảm ơn các bé gái đã bưng quả (vì thế nên ngày nay từ lại quả thường được dùng trong các hành vi móc ngoặc tiền phần trăm trong các hợp đồng liên quan đến tài chính).

Ngày xưa, thanh niên nam, nữ ở Nhơn Thành, cũng như ở Bình Định muốn thành vợ chồng phải có người mai mối. Nay tục này hầu như không còn, song vẫn còn rơi rớt ở các cô, cậu muộn mằn chuyện hôn nhân. Mai dong là người có vai trò quan trọng trong cưới hỏi. Ông mai như người liên lạc giữa hai nhà và luôn vun đắp cho cuộc hôn nhân được vuông tròn.

Ông mai dong là người ăn nói giỏi giang có tài thuyết phục và xoay trở. Đầu tiên ông mai dong được nhà trai nhờ đánh tiếng dạm hỏi. Nếu được thì tiến hành lễ thăm nhà (hay còn gọi là lễ coi mắt). Đây là bước rất quan trọng, vì nó quyết định cho cả cuộc hôn nhân. Thành phần nhà trai trong lễ thăm nhà tùy theo từng nhà, song không thể thiếu chú rể và ông bố. Lễ thăm nhà (coi mắt) là để chàng trai, cô gái và cha mẹ 2 bên được tận mắt nhìn thấy cô dâu, chú rể tương lai. Vì lâu nay, họ chỉ biết qua lời miêu tả của ông mai dong.

Sau lễ thăm nhà là lễ sơ vấn (đi nói). Tại lễ này, nếu nhà gái nhận cặp rượu, cặp trà thì coi như hôn nhân đã thành công 90%. Chỉ hạn hữu lắm mới có chuyện trả lễ, vì người Nhơn Thành cũng như người Bình Định quan niệm đã nhận trà rượu của nhà trai thì cũng giống như chấp nhận một đời chồng, nếu trả sẽ lỡ duyên cả đời con gái.

Rồi đến lễ hỏi và đại nạp. Lễ hỏi là lễ nhà trai mang sính lễ, trầu cau đến chính thức hỏi cưới con dâu, còn nhà gái thì ra điều kiện, lễ vật để nhà trai chuẩn bị (gọi là thách cưới).

Sau khi chuẩn bị mọi sính lễ theo yêu cầu của nhà gái, thì hai nhà tổ chức lễ đại nạp. Tại lễ này, nhà trai chuẩn bị ngoài lễ vật như trà, rượu bánh trái còn có tiền nát và nữ trang theo yêu cầu của nhà gái. Đây cùng là lúc chú rể trao nhẫn cho cô dâu và chính thức trở thành dâu, con trong hai nhà.

Sau lễ đại nạp chỉ còn lễ cưới và nghinh dâu. Lễ cưới tiến hành bằng việc chào đón hai họ. Cô dâu chú rể bái lạy gia tiên sau khi ông bố vợ sắm sửa bàn thờ làm lễ cáo gia tiên bằng bài cúng sau:

Bình Định tỉnh, An Nhơn huyện, Nhơn Thành xã

Tuế thứ… Niên, cát ngoạt, cát nhật

Gia chủ... tuổi

Vợ … tuổi

Cẩn dĩ hương đăng trà quả, phẩm vật

Kính dâng: cáo lễ gia tiên

Nam… tuổi

Nữ … tuổi

Gia chủ cung thỉnh

Ngài Thổ Thần, ngài Táo Quân

Gia chủ cung thỉnh: Đức ông tơ Hồng, Đức bà Nguyện lão

Gia chủ cung thỉnh: Tổ tiên, ông bà từ cao đến thấp

Cung thỉnh quí ngài về chứng giám Lễ kết hôn này.

Nhờ ơn quí ngài phò hộ cho đôi lứa: Bá niên giai lão, làm ăn khá, sanh con lanh lợi.

Gia chủ kính dâng lễ vật này để tạ ơn quí ngài.

Cung thỉnh quí ngài đồng lai phối hưởng.

Hoàn lễ, gia chủ kính mời quí ngài qui hồi bổn sở!

Gia chủ kính bái!

Bài cúng này cũng được dùng cho lễ gia tiên ở nhà đàng trai trước khi đi đón dâu. Người con trai phải làm lễ ở bàn thờ nhà mình, rồi khi tới nhà cô dâu cũng làm lễ gia tiên. Tùy theo nơi, có nơi kỹ hơn còn đưa cô dâu chú rể đến nhà thờ họ hai bên để làm lễ. Việc làm lễ gia tiên trước bàn thờ nhà chồng hoặc nhà vợ chính là dịp để chú rể, cô dâu trình diện với tổ tiên, nhận tổ tiên như tổ tiên nhà mình. Điều này còn có ý nghĩa đề cao vai trò trách nhiệm của dâu rể với tổ tiên dòng họ, buộc họ phải sống sao cho khỏi phụ lòng tổ tiên.

Sau lễ cáo gia tiên là lễ làng (lễ nộp cheo). Cô dâu chú rể bái lạy già làng, hoặc chức sắc trong làng và xin nộp tiền cheo để rước dâu đi. Có lễ này thì hôn nhân coi như đã được làng chứng kiến đồng thuận.

Cuối cùng là lễ hai họ và cha mẹ đôi bên rồi đến tiệc cưới mời hai họ, có làng đồng dự.

Trong ngày cưới, người ta kiêng kỵ nói chuyện chia loan rẽ thúy và rất cẩn thận trong khi dùng chén dĩa, ly tách, vì nếu lỡ làm vỡ sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc lâu bền của hôn nhân.

Sau lễ cưới là lễ nghinh dâu (rước dâu). Cô dâu nhà giàu được rước bằng kiệu, nhà trung nông thì rước bằng cáng che màn ngũ sắc, nhà vừa vừa thì bằng võng che lọng ngũ sắc, hoặc đi bộ có đội nón chụp bạc, chụp đồi mồi. Lễ này có họ nhà gái đưa dâu đến nhà trai và cũng diễn ra các lễ cáo gia tiên, lễ làng, lễ hai họ và cha mẹ đôi bên như ở lễ cưới. Tại lễ này, nhà gái thưa gởi con dâu và trao của hồi môn cho con gái cùng những lời dặn dò bịn rịn trước lúc ra về. Sau lễ nghinh hôn ba ngày, buổi sáng ngày thứ tư cô dâu được chú rể đưa về thăm nhà, người Nhơn Thành gọi là lễ hồi dâu. Lễ hồi dâu theo nghĩa "nữ tử qui ninh phụ mẫu", tức lần đầu tiên con gái về thăm cha mẹ sau ngày về nhà chồng làm dâu. Lễ vật của lễ hồi dâu là một quả bánh, thường là bánh ít.

Liên quan đến hôn nhân, ở Nhơn Thành xưa còn có lễ mừng năm cơm mới và lễ tết mừng tuổi thường niên. Các lễ này thường duy trì ba năm sau lễ cưới…

Như vậy lễ cưới xưa của người Nhơn Thành khá rườm rà và cầu kỳ. Ngày nay, thực hiện chủ trương văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội, người Nhơn Thành cũng như các địa phương khác của Bình Định đã giảm bớt nhiều bước trong lễ cưới hỏi, kể cả lễ vật và tiệc tùng; chỉ còn ba bước gồm: sơ vấn, đại nạp và lễ cưới, thậm chỉ có nhà giảm xuống còn hai bước là sơ vấn và lễ cưới. Tuy tên gọi là thế, nhưng nội dung và hình thức các lễ này cũng hiện đại và giản tiện hơn nhiều.

Còn các tục lệ như nộp cheo, lễ làng, thách cưới thì đã không còn. Song đến nay vẫn còn tục bưng quả, lại quả, hồi dâu và lễ tết mừng tuổi. Lễ tết mừng tuổi không rườm rà như xưa, mà cô dâu, chú rể chỉ về thăm cha mẹ hai bên trong ngày tết Nguyên đán là đủ. Tục lễ tạ ông mai dong cũng đã không còn. Các chàng trai, cô gái cảm thấy không thoải mái trong việc này, dù họ không còn phải mang theo lễ vật trong lễ hồi dâu hay lễ tết. Tục hồi dâu và tục tết cha mẹ là những lễ tục có giá trị trong việc ứng xử ở gia đình và kính trọng cha mẹ như tục ngữ đã nói: mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ mùng ba tết thầy.

Sự khác biệt trong phong tục cưới ba miền

Xét trong ba miền, nghi thức, phong tục cưới có nhiều đổi khác khi đi từ Bắc vào Nam.

Thời xưa, trong đời người từ lúc sinh ra đến lúc mất đi đều trải qua nhiều buổi lễ quan trọng. Nghi lễ ở các vùng miền khác nhau sẽ diễn ra theo hình thức lẫn nội dung khác nhau. Ngày nay, trong thời đại mở cửa, người Việt cũng bị cuốn vào lối sống công nghiệp nên tựu trung lại chỉ còn ba lễ quan trọng vẫn được bảo tồn đó là hôn – tức lễ cưới, tang – tức lễ ma chay, tế - tức lễ tế tự ở đền miếu. Nếu lúc trước còn có lễ Gia Quan tức là đội khăn cho người con trai được 20 tuổi (ta) để chứng tỏ người đó trưởng thành, có thể làm trụ cột cho gia đình thì ngày nay, hôn lễ dường như gánh luôn phần ý nghĩa cho lễ Gia Quan. Xét trong ba miền, nghi thức, phong tục cưới có nhiều đổi khác khi đi từ Bắc vào Nam.

Tục cưới miền Bắc

Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác quy định nghiêm ngặt hơn. Ít nhất phải giữ 3 lễ Chạm ngõ, Lễ hỏi và Rước dâu.

Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ở Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cần thiết, để giữa hai gia đình, "chỗ người lớn" thưa chuyện với nhau. Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể thiếu được cơi trầu.

Mâm quả của người miền Bắc khá cầu kỳ.

Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá.. Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh "su sê", ngày xưa gọi là bánh "phu thê", một số địa phương gọi chệch ra là bánh "su sê" là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Ngày giờ tốt cho lễ hỏi phải được chọn kỹ lưỡng, các tráp ăn hỏi cũng phải chuẩn bị đầy đủ, phải là số lẻ và lễ ăn hỏi phải diễn ra trước đám cưới ít nhất một tuần tới 10 ngày.

Lễ rước dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, đầu làng hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ XX vẫn còn), muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong ngày cưới). Trong khi đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên.

Lễ cưới miền Trung

Người miền Trung, mà cụ thể là tại cố đô Huế có tục cưới xin đơn giản, tiết kiệm, trọng lễ nghi, không trọng tiền bạc. Người Huế cũng có các bước như dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu nhưng ý nghĩa có khác đôi chút so với miền Bắc. Chuẩn bị lễ hỏi, lễ cưới, người Huế thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau khi chọn ngày giờ, hai bên thông gia sẽ báo cho nhau bằng một cuộc thăm đơn giản.

Ðám cưới Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, và đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo; không có "lợn quay đi lộng" như nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ thường là 1 trai 1 gái, tuổi tương đương cầm lồng đèn hay cầm hoa. Trong đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi bạn trẻ phải nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái sẽ không theo xe, mà hôm sau mới sang nhà trai, với ý nghĩa xem cô con gái ngày đầu về làm dâu có làm điều gì phật lòng nhà chồng không. Buổi gặp này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái cho nhau, và căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình bên vợ hoặc bên chồng.

Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Ảnh minh họa: QT

Ðặc biệt, quan hệ tuổi mạng rất được coi trọng ở đám cưới Huế. Theo TS Tôn Thất Bình: vị chủ hôn thường là vị cao niên trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Những nhân vật khác trong đám cưới từ người may áo cưới, người sắp xếp phòng cho đêm tân hôn, người đóng vai trò tổ chức đều được lựa chọn kỹ càng. Những người này đều phải có gia đình hòa thuận, con cái đề huề.

Đám cưới miền Nam

Người dân phía Nam thường có lối suy nghĩ phóng khoáng, vì thế phong tục cưới hỏi của họ cũng có phần thoải mái, giảm nhẹ hơn. Lễ cưới tại miền Nam vẫn có đủ 3 nghi thức là dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu. Nhưng không như miền Bắc, người miền Nam có thể bỏ qua lễ dạm ngõ mà tiến hành lễ ăn hỏi và đón dâu cùng một ngày.

Tuy nhiên, có một nghi lễ bắt buộc cần có trong đám cưới miền Nam, đó là lễ lên đèn. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên, trong nhà, trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ "hương đăng hoa quả". Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật đưa đến, ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau. Đại diện nhà trai đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. Hai bên bàn bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì giờ vì đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của đàng gái tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn"

Phong tục cưới hỏi của miền Nam có phần thoải mái, giảm nhẹ hơn.

Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất. Hai ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà. Người trưởng tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do đàng trai đem đến. Rồi thì ông đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Hai ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa). Hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang áp vào hai tay, như khấn vái. Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao cho hai người trợ lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn hiếp chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỹ, sợ gió tạt hoặc tạm thời tắt quạt máy. Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất, không làm bằng sáp ong như xưa nên dễ tắt bất ngờ. 

“Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi.” – dẫn theo nhà Nam bộ học Sơn Nam.

 

(ST)

Tôi muốn được biết cụ thể các nghi thức, thành phần tham dự trong các lễ đám cưới của người Bình Định.
hơn 1 tháng trước - Thích (1)
Gửi hỏi đáp - bình luận