Phong tục cưới hỏi của người Hà Nội
Phong tục cưới hỏi của người Nam Bộ
Phong tục cưới hỏi của người Mông siêu thú vị
Vào ngày cưới, nhà gái cho ông mối (chano) sang đón rể. Lễ vật đi rước gồm có: Chiếc vòng mà trong lễ hỏi, nhà trai đã tặng (máongang), gạo, rượu, thịt, ên, áo, chén đồng… khi họ đến đầu làng, nhà trai phải cho người ra đón và dẫn về nhà.
Người Chăm theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Thông thường, con trai và con gái người Chăm thích lấy nhau cùng làng. Để đến được với nhau, họ phải có một quá trình tìm hiểu hoặc có người làm mối. Khi hai bên gia đình và con đồng ý thì tiến hành lễ hỏi, sau lễ hỏi 15 ngày, họ tổ chức lễ cưới.
Vào ngày cưới, nhà gái cho ông mối (chano) sang đón rể. Lễ vật đi rước gồm có: Chiếc vòng mà trong lễ hỏi, nhà trai đã tặng (máongang), gạo, rượu, thịt, ên, áo, chén đồng… khi họ đến đầu làng, nhà trai phải cho người ra đón và dẫn về nhà. Sau khi sắp đặt các lễ vật như trầu cau, rượu cần và 2 chiếc vòng (một nam, một nữ) 1 cái nồi đồng, 1 chiếc kiềng bạc, họ hàng hai bên ngồi xung quanh chứng kiến, chủ nhà khấn ông bà, tổ tiên về nhận mặt người mới vào nhà và phù trợ cho người đó luôn mạnh tay, khoẻ chân. Khấn xong, hai bên làm lễ trao vòng, vòng nam khắc 7 dấu, vòng nữ khắc 3 dấu. Theo phong tục, khi hai người không còn ăn ở với nhau mà chiếc vòng chưa trả lại thì quan hệ vợ chồng vẫn còn và đương nhiên các thành viên này không được kết hôn với người khác.
Sau lễ trao vòng, người mẹ chồng cầm chiếc kiềng bạc đeo vào cổ con dâu và trao cho đôi vợ chồng chiếc nồi đồng. Đây là những đồ vật gắn với họ suốt đời và phải giữ gìn, bảo quản cẩn thận, không để người khác mang ra khỏi bếp, không cho ai mượn hoặc không được làm mất. Xong lễ, hai bên ngồi uống rượu, trò chuyện với nhau, đến lúc trời đã về khuya, rượu đã ngấm, nhà trai và nhà gái bắt đầu hò đối đáp.
Sáng hôm sau, đoàn người nhà gái cùng nhà trai về nhà nhà gái để làm lễ ra mắt tổ tiên. Khi đến đầu làng thì cô gái chạy trốn, ông chano cùng với dân làng đi tìm. Họ đi quanh trong buôn một lúc rồi cũng bắt được. Lúc này chano lấy sợi dây vải, dài độ sải tay buộc vào tay cô gái dẫn về nhà, họ đặt cho cô dâu, chú rể cùng ngồi một chiếc chiếu mới trải ở nhà, hai người đưa tay cầm chung mảnh vải, từ đây người con trai đã chính thức trở thành thành viên của gia đình nhà gái. Vài tháng hoặc một, hai năm sau họ mới tổ chức lễ cưới chính thức.
Trong lễ cưới chính thức, cô dâu, chú rể ngồi bên chén rượu, thầy cúng bốc gạo vãi lên trời gọi Yàng trời, Yàng đất, Yàng ông bà về chứng kiến ngày hợp thành vợ chồng của đôi trai gái. Cúng xong, xả heo thịt, đem nấu các món ăn, rượu hút ra, cô dâu chú rể cầm đi mời khách uống làm phép. Sau đó, cô dâu, chú rể ngồi vào chiếc chiếu trải cạnh chén rượu để trao rượu cho họ hàng đôi bên. Từ đây, cha mẹ chồng goi cô dâu là "Nghê", em chồng xưng hô với chị dâu là "Ai". Sau lễ cưới một ngày gia đình nhà gái tổ chức cho vợ chồng đi bắt cá. Trong ngày đó, nếu vợ chồng bắt được nhiều cá thì sau này làm ăn gặp nhiều may mắn, giàu có, con cái khôn ngoan, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc.
Ba ngày sau, hai vợ chồng về lại nhà trai làm lễ đạp tro nhà chồng. Lúc này nhà trai mổ heo, làm gà, nhắc rượu mời họ hàng, người thân và những người trong buôn để chung vui, đồng thời tiễn người con trai về ở nhà vợ. Dịp này nhà trai trao cho vợ chồng của hồi môn./.
Đám cưới tiếng Chăm là Đam Likhah hay Đam Bbơng mưnhum, tổ chức vào các tháng 3, 6, 10, 11 Chăm lịch (kém tháng Dương lịch 2 tháng). Cưới vào ngày chẵn hạ tuần thuộc Mẹ (âm): 2, 4, 6, 8, 10, 12 và 14 Chăm lịch.
Người Chăm cưới hỏi theo chế độ mẫu hệ, nên gái hỏi chồng, và người con trai theo về nhà gái. Người Chăm có ba tôn giáo chính: Bà-la-môn, Bàni và Islam. Hôn nhân giữa các tôn giáo này bị cấm. Sự thể đã được lưu truyền nhiều trong dân gian, trong ca dao tục ngữ cũng như tác phẩm văn chương: Ariya Cam – Bini. Con của người đàn ông Bàni lấy nữ Chăm Bà-la-môn không được vào Kut chính; còn con của những đàn ông Bà-la-môn và chính người đàn ông ấy thì phải làm lễ vào đạo vợ. Đằng nào cũng nhiêu khê cả. Ngày nay, sự phân biệt ấy đã giảm nhiều nhưng không phải đã chấm dứt.
Có thể nói, đám cưới Chăm ngày xưa với nay khác nhau không nhiều lắm. Trong tác phẩm Vương quốc Champa (Le Royaume du Champa), G. Maspéro diễn tả đại ý: Hôn nhân ở dân tộc Chăm thông qua một người mối. Người này mang ít vàng, bạc, hai hũ rượu… đến nhà người con gái cầu hôn. Nếu thuận, hai bên định ngày cưới. Trong ngày cưới, người con trai cùng khách khứa, họ hàng qua nhà gái. Mọi người tụ họp ăn uống, nhảy múa, ca hát… Người Chăm quan niệm đàn ông chỉ có vai trò thứ yếu, chỉ đàn bà mới quan trọng. Người mai mối dẫn chàng rể tới gần cô dâu, cầm tay hai người để họ nắm tay nhau, miệng đọc câu chúc tụng. Một điều đáng lưu ý là, ngày xưa đàn ông tới hỏi, ngày nay thì ngược lại.
Đám cưới của người Chăm Bà-la-môn và Bàni ngày nay vẫn còn giữ được truyền thồng từ ngàn xưa. Trước tiên là Lễ dạm hỏi Ppalwak panwơc - do ông bà mai Ong muk janhuk bên gái qua nhà trai. Thường thì câu nói cửa miệng là: Nau dwah kabaw đi tìm trâu tốt cho mùa vụ. Rồi Lễ hỏi Nau pwơc. Với lễ vật đơn sơ: trầu cau, rượu, bánh trái, pei nung bánh tét, và nhất là có cá đuối ikan yuw tượng trưng cho sinh sôi nảy nở.
Theo sau Lễ dạm hỏi, còn có Ppaklauh panwơc “dứt lời”. Đại diện hai họ quyết định về ngày tháng tổ chức, số thực khách,… Đã “dứt lời” rồi thì không còn có thể thay đổi được nữa. Cuối cùng là Lễ cưới Harei bbơng mưnhum.
Người Chăm quan niệm đời người có ba lần sinh. Cưới là lần sinh thứ hai. Ở đây không phải cha mẹ sinh thành đứng ra “sinh” mà là Ong Inư Amư có thể dịch là Cha mẹ đỡ đầu. Chuẩn để làm cha mẹ đỡ đầu là họ chưa hề nửa đường đứt gánh klauh yaut, có tuổi tương đương tuổi cha mẹ “thực”, và biết về phong tục tập quán để có thể thực hiện vài nghi thức trong đám cưới. Cha mẹ đỡ đầu thay mặt cha mẹ thực, thực hiện tất cả thủ tục cuộc lễ. Chỉ sau đó, cha mẹ thực có qua nhà đàng gái.
Lễ cưới tiến hành 3 bước: Lễ ở nhà trai, Lễ ở nhà gái và Lễ Talơh khan aw (mang áo quần chú rể từ nhà trai qua nhà gái). Lễ Cưới kéo dài 4 ngày từ thứ Tư đến thứ Bảy.
Ngày thứ tư, khởi đầu đám cưới là ở nhà trai với lễ vật rất đơn sơ, vì không quan trọng. Khoảng 2-3 giờ chiều, cha đỡ đầu dẫn chú rể và đoàn người thuộc họ đàng trai ra khỏi nhà để đi qua nhà gái. Nhà gái làm Lễ đón rể Rauk anưk mưtuw ở ngoài cổng làng, vào nhà.
Lễ chính diễn ra ở nhà gái. Ở đây, chú rể được dẫn vào phòng cô dâu làm các thủ tục lễ nghi cần thiết, như hai bên trao trầu cau cho nhau, chàng rể trao áo cho cô dâu. Sau bữa tiệc đãi họ đàng trai, cha mẹ đỡ đầu làm thủ tục Gởi chú rể Paywa anưk mưtuw rồi trở về nhà.
Tại phòng the, trong ba ngày đêm người ta giữ cho cây nến sáp cháy liên tục trên cỗ bồng trầu Thong hala, ngăn cách cô dâu với chú rể. Chỉ sau khi cỗ bồng trầu này được dọn đi, vợ chồng mới được động phòng. Ngày thứ bảy là ngày Talơh khan aw. Nhà gái qua nhà trai làm lễ tạ rồi mang “quần áo” chú rể qua nhà vợ. Họ chính thức trở thành vợ chồng Hadiip pathang.
Về phong tục tập quán lẽ thường là vậy, nếu gia đình hai bên hay cặp gái trai có điều kiện kinh tế tối thiểu. Còn gặp trường hợp gia cảnh cả đàng trai lẫn đàng gái không cho phép tổ chức đám cưới bằng chị bằng em drơh palei drơh nưgar, họ có thể làm Đám cưới lén Bbơng mưnhum klaik. Cũng ngày lành tháng tốt, chiều tối thứ tư khi mặt trời vừa lặn, vài anh em trong họ dẫn chú rể qua nhà cô dâu. Ăn ở với nhau có một mặt con, gia đình trẻ cùng cha mẹ bên đàng gái dắt díu nhau về bên nhà trai làm lễ “thú” họ hàng. Coi như xong đám cưới.
Dù rất hiếm khi xảy ra, gặp trường hợp bất hòa, ông chồng bỏ về nhà cha mẹ, bên đàng gái cũng qua làm lễ thú cho ông chồng này về với vợ. Hay nặng hơn, nếu có ly dị ppaklauh gơp, hai bên dẫn nhau ra trước hai họ làm thủ tục Chẻ đũa Blah dwơh. Khi ly dị, dù có thể vợ chồng đưa nhau ra tòa đúng thủ tục hành chính, thế nhưng tuyệt đại đa số ông chồng Chăm không mang của cải theo mình, mà để lại tất cả cho vợ nuôi con cái./.
Những phong tục đẹp trong đám cưới người Chăm Bàlamôn
Tuy chịu ảnh hưởng của tôn giáo Bàlamôn, nhưng nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận lại mang nhiều nét văn hoá truyền thống hơn là văn hoá tôn giáo. Bởi trước khi tiếp nhận ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ, người Chăm cũng như các cư dân Đông Nam Á đã mang trong mình nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghi lễ cưới xin người Chăm Bàlamôn, nhưng chưa có công trình nào bóc tách các lớp văn hoá và đi tìm những phong tục tập quán tốt đẹp trong của người Chăm trong đám cưới truyền thống ấy. Qua một công trình khoa học gần đây nghiên cứu về nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn, chúng tôi xin ghi lại những phong tục lạ và đẹp của một đám cưới truyền thống người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận.
Cũng như các dân tộc khác ở Việt Nam và ở Đông Nam Á, cưới xin là một trong những nghi lễ quan trọng trong các nghi lễ đời người, đánh dấu mốc kỷ niệm và bước ngoặt, nhiều khi còn là số phận của cuộc đời mỗi con người. Vì vậy, các bước của nghi lễ cưới xin phải qua đầy đủ trình tự thủ tục chặt chẽ, khá tương đồng giữa các dân tộc từ nghi thức mai mối, lễ hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt v.v... Tuy nhiên, do sự chồng xếp nhiều lớp văn hoá, lễ cưới người Chăm Bàlamôn mang nhiều nét đặc thù mà ít có ở các dân tộc khác ở Việt Nam.
Người Chăm vẫn duy trì chế độ mẫu hệ nên quyền chủ động trong hôn nhân thuộc về nhà gái. Khi con gái đến tuổi lấy chồng, cha mẹ đã phải lo nhắm trước những chàng trai trong vùng để “lựa rể” cho con mình, và vì là nhà gái, nên cha mẹ bao giờ cũng phải giữ “tiếng” cho con gái mình, mọi nghi thức mai mối dạm hỏi thường được diễn ra “bí mật” tuyệt đối, vì lỡ sự dạm hỏi không thành, ảnh hưởng tới “tiếng” của cô gái và vì vậy lần dạm hỏi sau sẽ khó hơn. Cũng vì lý do này mà nhà gái phải mời ông mai bà mối là những người khéo ăn nói, khi đi dạm hỏi phải biết nói xa gần, bóng gió, ví von bằng hình ảnh đon sơ mộc mạc như con trâu, cái cày, chiếc xe trâu, ví dụ như những câu: “Ruộng nhà tôi đang vào mùa vụ, nhà tôi muốn tậu con trâu nhà chị về nuôi…”. Đồng thời thăm dò bằng được ý tứ của đằng nhà trai.
Ngoài ra, ông mai bà mối phải là người đàng hoàng, “một kèo một cột” (một vợ một chồng) gia đình hoà thuận, con cái đông đúc, có uy tín trong làng và đã nhiều lần mai mối thành công. Nếu nhà trai đồng ý, ông mai bà mối đi lại bàn bạc với nhà trai nhiều lần để bàn những bước tiếp theo.
Lễ vật trong lễ hỏi của người Chăm thường rất đơn giản, chỉ có trầu cau, rượu, bánh pay nung (một loại bánh dân tộc giống như bánh tét), một vài loại trái cây. Đồ ăn thức uống trong đám cưới là những món ăn cổ truyền Chăm làm từ các loại nông sản và vật nuôi như thịt gà, thịt vịt, cá, bún, súp, các loại canh rau, đặc biệt là phải có cá đuối vì người Chăm quan niệm cá đuối là loại cá đẻ ra con, với ý niệm là đôi vợ chồng trẻ sẽ mau mắn có con, ngoài ra, cá đuối còn tượng trưng cho ánh sáng. Phong tục xưa quy định, trong lễ cưới, ngày đầu tiên chỉ ăn toàn cá đuối.
Lễ hỏi diễn ra đơn giản trên những chiếc chiếu trải trên sân nhà. Bà bóng dòng tộc sẽ làm một lễ cúng ông bà tổ tiên rồi mọi người trò chuyện vui vẻ. Trước khi ra về, đại diện nhà gái mời đại diện nhà trai đến “làm khách” nhà gái. Nhà gái sẽ tổ chức một bữa tiệc mặn đón nhà trai. Buổi tiệc này, hai họ sẽ làm lễ “dứt lời” (quyết định đám cưới). Nhìn chung, nghi thức dạm hỏi cũng như lễ hỏi cũng giống như các dân tộc khác, chỉ khác là nhà gái đi hỏi chồng bên nhà trai và không có chuyện thách cưới, ngoài ra có thêm lễ “dứt lời” để đi đến quyết định tổ chức đám cưới.
Cũng như các dân tộc khác, người Chăm cũng quan niệm ngày lành tháng tốt trong một năm. Nhưng đối với người Chăm, một dân tộc có quan niệm âm dương lưỡng hợp rất rõ nét nên mọi quy định đểu phải phù hợp với quy luật này. Đám cưói của người Chăm, do là chế độ mẫu hệ nên lễ cưới thuộc âm. Vì vậy, lễ cưới của người Chăm phải chọn vào đúng các tháng 3,6,10,11 lịch Chăm và phải nhằm vào những ngày hạ tuần trăng (thuộc âm - từ đêm trăng tròn đến khi hết trăng). Ngày cưới phải thuộc vào ngày chẵn (các số thuộc âm) :2,4,6,8,10,12,14 Chăm lịch và phải vào ba ngày (thứ ba, thứ tư, thứ năm) trong tuần. Trong ba ngày ấy, lễ chính thức thuộc vào thứ tư. Giờ bắt đầu lễ cưới phải bắt đầu buổi chiều (buổi chiều thuộc âm). Cách tính ngày giờ tốt xấu của người Chăm khá phức tạp nhưng chặt chẽ, tuân thủ theo những quy luật nhất định và phải quán xuyến thống nhất từ đầu đến cuối, lễ cưới thuộc âm và mang tính “mẹ” rất rõ ràng. Đây là một phong tục thể hiện chế độ mẫu hệ bao trùm suốt chiều dài lịch sử văn hoá dân tộc Chăm.
Một nét khá độc đáo trong đám cưới người Chăm Bàlamôn là người chủ lễ. Chủ lễ cưới của người Chăm Bàlamôn được gọi là ông bà Nưmư (cha mẹ đỡ đầu). Ông bà nưmư phải là người có uy tín và am hiểu phong tục tập quán, thuộc các bài khấn vái trong các tiểu lễ. Đặt trường hợp ông bà nư mư không thuộc hoặc chưa quen việc cúng kính, có thể mời một ông thầy khác cúng thay, nhưng chủ lễ vẫn là ông bà nưmư. Ông nưmư phải có tuổi hợp với cô dâu chú rể, có gia đình và “một cột, một kèo”, đông con cái, có gia tài, có sự nghiệp kha khá. Ngoài ra, luật tục còn quy định, trong một năm ông nưmư chỉ được làm chủ hôn một lần vì theo quan niệm, cha mẹ mỗi năm chỉ đẻ được một con. Ông bà nưmư thay mặt cho cha mẹ đẻ tổ chức hôn lễ cho đôi vợ chồng với trách nhiệm là cha mẹ đỡ đầu, ông bà nưmư có trách nhiệm giới thiệu đầy đủ bà con họ hàng hai bên cho cô dâu chú rể, và cô dâu chú rể phải bằng mọi cách để nhớ được các vai vế trong bà con hai họ.
Một nét văn hoá khá độc đáo trong đám cưới người Chăm Bàlamôn là trong ngày cưới, cha mẹ đẻ của cô dâu chú rể phải đi trốn, lánh mặt không xuất hiện trong các lễ thức đưa đón rể và lễ nhập phòng the. Đây là một hiện tượng văn hoá hiếm thấy ở các dân tộc khác. Khi hỏi một số người già Chăm, họ giải thích như sau: Tuy cha mẹ là người có công sinh thành, nuôi dưỡng cô dâu chú rể nhưng khi lớn lên là con cháu của họ hàng. Người Chăm có câu thành ngữ:
“Toh tet nưh a mư thong mư; tăn prong nưh kâu pa chan”
Có nghĩa là:
“Lúc còn nhỏ là con của cha mẹ, lớn lên là con của họ hàng”.
Vì vậy, khi cưới, cha mẹ giao hết con cái mình cho ông bà nưmư và bà con họ hàng. Khi rước rể về, cha mẹ hai bên đi trốn, lánh mặt là để cô dâu chú rể làm quen với bà con trong tộc họ hai bên trước. Chỉ sau lễ nhập phòng the, cha mẹ mới xuất hiện. Họ hàng đối với người Chăm rất quan trọng. Sau khi cưới, cô dâu chú rể phải đi thăm hết bà con họ hàng. Nếu ra đường gặp người trong họ mà không biết, không chào hỏi đúng ngôi thứ sẽ bị chê cười. Thậm chí, lỡ có xung đột, cô dâu chú rể cũng phải nhịn, phải chịu thua thì mới tỏ lòng tôn kính những người trong tộc họ.
Một phong tục khá độc đáo trong lễ cưới của người Chăm Bàlamôn là nghi thức “ba đêm cấm động phòng”. Trong ba ngày cưới, ngày đầu tiên, sau lễ đưa, đón rể là lễ nhập phòng the. Ông nư mư nhà trai dùng tay phải (dương) cầm tay chú rể đưa cho ông nưmư nhà gái. Ông nưmư nhà gái đón nhận tay chàng rể bằng tay trái (âm) từ tay ông nưmư và dắt vào phòng the. Sau các lễ thức cúng kính và yểm bùa trải chiếu, gối, ông nưmư dặn chú rể, bà nưmư dặn cô dâu trong ba ngày đêm ở phong the được làm gì, không được làm gì. Cô dâu, chú rể lúc này được nằm hay ngồi trên chiếu tuỳ thích, nhưng ở giữa hai người là một chiếc cổ bồng mâm tơ hồng gồm trầu cau, nến sáp cháy suốt ngày đêm. Xung quanh vách tường, trên chiếu gối đều đã được ông thầy yểm bùa. Ba đêm trong phong the ấy, cô dâu chú rể đã được căn dặn là không được “đụng nhau”, phải ở nguyên vị trí của mình. Chỗ ai nấy nằm, gối ai nấy kê, ở giữa là mâm tơ hồng ngăn cách. Ba đêm dài đằng đẵng như ba thế kỷ, hai người ở bên nhau phải “thụ thụ bất thân”, chỉ được trò chuyện, ngắm nhìn nhau trong khao khát cháy bỏng, phải kìm nén nhục dục. Có thể, trong thời gian thiêng, trong không gian thiêng ấy, họ cảm thấy yêu nhau mãnh liệt và cần nhau đến mức nào?
Việc kiêng ba ngày đêm đầu tiên không dược ăn nằm với nhau là một phong tục đã có từ lâu đời của người Chăm và người Chăm coi đây là một nét đẹp trong phong tục tập quán của minh. Các cụ già Chăm giải thích rằng, sở dĩ có tục ba đêm cấm động phòng đó là vì, ngày xưa, quyết định hôn nhân là do cha mẹ hai bên sắp đặt, nhiều đôi trai gái chưa quen biết nhau và đa số là còn ít tuổi. Có khi đến ngày cưới mới biết mặt nhau, còn lạ lẫm, mắc cỡ, thậm chí sợ sệt khi lần đầu tiếp xúc với “chuyện ấy”. Ba đêm vừa để hai người từ lạ lẫm làm quen nhau, tìm hiểu nhau. Ở một khía cạnh khác, các cụ giải thích rằng, ba ngày cưới là ba ngày rất bận rộn và mệt nhọc của cô dâu và chú rể vì phải trải qua khá nhiều lễ thức. Sau ba ngày đêm, khi lễ cưới đã xong xuôi, khách khứa họ hàng gần xa đã về hết, cô dâu chú rể mới thảnh thơi tận hưởng đêm tân hôn. Cũng có một số nhà nghiên cứu văn hoá Chăm đề cập nhưng mới chỉ nêu hiện tượng, chưa lý giải cũng như chưa truy tìmm nguồn gốc phong tục này. Qua qua trình nghiên cứu, lục tìm tài liệu về Bàlamôn giáo, chúng tôi thấy tục ba đêm cấm động phòng có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ba ngày trong lễ cưới, cô dâu chú rể không được chăn gối đã được ghi trong kinh tình yêu “kamasutra” của Ấn Độ cổ: Ba đêm đầu, vợ chồng phải ngủ trên nề nhà và phải kìm giữ nhục dục…” Người Ấn Độ xưa rất đề cao sinh hoạt tình dục sau khi cưới và đẩy lên thành nghệ thuật mà điển hình là bộ kinh tình yêu còn đến hôm nay.
Sau ba đêm, ông nưmư làm một lễ nhỏ để tháo gỡ các bùa chú đã yểm trên gối chiếu trong phòng the. Bà nưmư căn dặn cô dâu kỹ càng chuyện phong the, ông nưmư cũng tranh thủ truyền đạt kinh nghiệm cho chú rể trước đêm động phòng.
Rõ ràng, đám cưới truyền thống của người Chăm Bàlamôn còn giữ được rất nhiều phong tục tập quán tốt đẹp, đặc biệt là không có tục thách cưới và các nét văn hoá tốt đẹp kể trên. Tuy nhiên, những năm gần đây, đám cưới của người Chăm Bàlamôn cũng đã và đang bị ảnh hưởng của người Kinh, nhiều đám cưới tổ chức trang trí cầu kỳ, cô dâu chú rể bỏ dần trang phục cưới truyền thống vốn rất đẹp của người Chăm, nhiều đám tổ chức ăn nhậu linh đình, tốn kém, thậm chí cũng thu phong bì phong bao như các đám cưới “tân thời” khác.
Tục cưới hỏi của người Chăm An giang
Dân tộc Chăm – một dân tộc có bề dày lịch sử trên dãi đất miền trung Việt nam. Đã từng để lại những dấu tích oai hùng mà đến nay vẫn còn sừng sững , hiêng ngang thách thức mọi sóng gió dập dùi. Nhưng ở đâu đó xa xôi về phía nam, giữa một châu thổ Cửu long giang trải dài với những cánh đồng bất tận xanh rì, với những ánh nước vẫy vùng bởi đàn cá kiếm ăn theo bầy . Nơi đó cũng có người anh em của họ ngày đêm đang mệt mài bên khung cửi thiêu dệt nên những câu chuyện cổ tích làm lan tỏa sắc Chăm thắm vào từng giọt phù sa của vùng đồng bằng châu thổ.
Cô dâu chú rễ trong trang phục truyền thống
Người Chăm An giang nói riêng và người Chăm ở vùng Nam bộ nói chung có giọng nói và nét văn hóa gần như giống nhau và tất cả đều theo Islam. Họ có những nét văn hóa riêng độc đáo rất khác so với người Chăm ở vùng Thuận Hải , mà tiêu biểu ở đây tôi xin trình bài vài nét về phong tục cưới của họ.
Người Chăm An giang theo phụ hệ nên khi dạm hỏi đàn trai phải sang nhà gái dạm hỏi và phải chịu tiền thách cưới. Trước tiên nhà trai nhờ một người có uy tín trong plei sang nhà gái dọ ý, khi nhà gái chụi thì nhà trai mới mời họ hàng sang để làm lễ dạm hỏi gọi là “tamâ khia”. Trong lễ dạm hỏi này nhà gái đặc những điều kiện và đưa ra tiền thách cưới.
Sính lễ nhà trai trong lễ "kalaoh panuec"
Khi được sự đồng ý trong thỏa thuận cả hai nhà tiến đến làm lễ “kalaoh panuec” tạm dịch là “ dứt lời” trong ngày lễ nhà trai phải dâng lễ vật là một mâm đầy ấp trái cây và nhà gái đáp lễ lại bằng những khay bánh đầy.
Sính lễ nhà gái trong ngày "kalaoh panuec"
Sau lễ “kalaoh panuec” là lễ “ikak tangân” tạm dịch là “cột tay”. Đây là giai đoan đã gần tới ngày cưới. Trong lễ “ikak tangân” nhà trai phải dâng những lễ vật đắc tiền với những đồ vật truyền thống ( áo dài, váy, khăn mat’ra, giày , dép…) và các đồ vật sử dụng hàng ngày ( lược , đồ trang điểm….)
Sau đó ha họ tiến hành đến lễ cưới chính thức.Thật ra lễ cưới trong Islam chỉ là phụ. Chủ yếu là lễ “Kabul” trong thánh đường. Tức lễ mà nhà gái đứng công khai tuyên bố gả người con gái và người con trai cũng công khai tuyên bố chấp nhận.
Chú rễ sau lễ "Kabul" trong thánh đường
Lễ cưới của người Chăm An giang diễn ra trong hai ngày và một đêm. Ngày thứ nhất là lễ “ Jumnait” trong lễ “ Jumnait” này có lễ “ tagok khagé” “ lên ghế”, mời bà con dòng họ đến ăn uống và văn nghệ. Nhưng trong ngày cưới này chủ yếu là bà con họ hàng và người cùng xóm. Không có khách xa.
Tiếp theo là đêm “ Malam anâk dara” hay “ malam anâk dam”. Đây là đêm hội mà trai thanh nữ tú có cơ hội gặp mặt nhau. Cô dâu, chú rễ mời bạn bè đến chung vui , hát hò đến tận khuya.
Văn nghệ đêm "malam anâk dara"
Và sáng sớm hôm đó là “ harei he” hay nôm na là ngày đưa chú rễ về nhà gái. Đây là tập tục còn sót lại của chế độ mẫu hệ xa xưa. Tuy vậy người Chăm luôn quan niệm đưa đàn ông đến làm chủ gia đình, quán xuyến và lo lắng cho cuộc sống của cả một đời người vợ. Chú rễ đựợc đưa đi với áo lọng chỉnh tề sau khi được hát tiễn biệt với bài “ la amék la imâ”.
Chú rễ được đưa qua nhà gái
Tối hôm đó các cụ già có tuổi được mời tới thấp trầm hương và cột mùng cho cô dâu chú rễ. Sau ba ngày động phòng nhà gái làm lễ “walimah” mời đàn trai và họ hàng tới ăn coi nhưng xong việc cưới hỏi…
Thêm một đám cưới theo phong tục người Chăm ở An Giang
Dự một đám cưới dù được “diễn” lại tại Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Hà Nội, nhưng người xem vẫn không khỏi ngỡ ngàng bởi những nghi thức và phong tục truyền thống của họ.
Thể thao & Văn hóa Online xin chia sẻ với bạn đọc chùm ảnh lễ cưới của chú rể Kanafi và cô dâu Subaydáh (sinh năm 1982) để cùng hiểu thêm một phần cuộc sống của người Chăm hiện đang sinh sống tại An Giang – Việt Nam.
Theo phong tục xưa, nam nữ Chăm không được quyết định trong việc cưới hỏi. Đến tuổi lập gia đình, cha mẹ nhà trai sẽ tìm hiểu và nhờ ông cả của làng ngỏ lời với nhà gái. Khi được chấp thuận, người làm mối sẽ trao đổi trước sau đó nhà trai sẽ làm lễ “dứt lời”, tức là khẳng định mọi việc đã được thống nhất.
Trong lễ hỏi, nhà trai mang theo một mâm trái cây làm lễ vật và những vật dụng cần thiết cho cô dâu trong đời sống riêng sau này như áo dài cưới, xà rông, khăn đội đầu, kim chỉ...
Phía nhà gái hôm sau sẽ “trả lễ” 1 mâm bánh và nhà trai trao một phong bì tiền cho nhà gái. Gần tới ngày cưới, ông cả cùng với người nhà trai mang giường sang sau đó cầu nguyện và trang trí phòng cưới.
Trong ngày cưới, cô dâu áo dài nhung đỏ, tím hay nhiễu dài đến gối, không xẻ hông, trùm khăn ren trắng, tóc và hai tai đều cài hoa và trâm cài đầu với các trang sức như vòng vàng, kiềng, nhẫn xuyến... chú rể mặc quần áo dài, quàng khăn, đội mũ vải màu trắng, móng tay, móng chân nhuộm đỏ bằng lá cây như cô dâu.
Lễ cưới diễn ra trong ba ngày. Ngày đầu tiên là ngày họp họ - làm bánh. Bánh dùng trong lễ cưới gồm có 3 loại bánh là bánh ha bum (bông lan), tapaikagah, gti kling (bánh ba lỗ) và món cơm cà ri bò.
Ngày thứ hai - ngày “lên ghế” (giường), cả hai gia đình nhà gái, nhà trai tự làm lễ cầu nguyện, ở mỗi gia đình, người đại diện sẽ đọc những lời chúc cầu nguyện cho cô dâu, chú rể sống bình an, hạnh phúc, sau đó mời cơm dân làng.
Ngày thứ ba - “đưa rể”, nhà trai tự đưa chú rể đến nhà gái. Nhưng trước khi đến nhà gái, nhà trai phải đến thánh đường làm lễ.
Khi đến nhà cô dâu, chú rể sẽ được bố vợ đón và cùng các ông cả làm lễ. Thủ tục quan trọng nhất là con rể bắt tay bố vợ sau đó đọc kinh, cầu phúc cho đôi vợ chồng trẻ.
Ông cả phía bên nhà gái sẽ là người phụ trách việc dắt chú rể vào buồng cô dâu bằng 1 chiếc khăn để thực hiện làm lễ "lên giường". Khi gặp cô dâu, chú rể phải lật khăn che và chỉ vào trán cô dâu ý khẳng định nguyện ước vợ chồng.
Trong nghi lễ “lên giường”, các ông cả, phù dâu sẽ tiếp tục làm lễ chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ.
Sau khi thực hiện đủ các nghi lễ, cô dâu sẽ trang cho chú rể những vật dụng sử dụng hằng ngày.
Tiếp đó, cô dâu chú rể sẽ ra chào họ hàng và khách đến dự buổi lễ.
Phía nhà gái sẽ phụ trách việc mời cơm khách. Bữa cơm thân mật trong đám cưới của người Chăm thường chỉ có cơm trắng và cà ri bò. Bữa cơm hoàn toàn không có rượu mà chỉ có nước chè và món bánh tráng miệng.
Chú rể và bố vợ sẽ có nhiệm vụ tiếp khách trong bữa cơm và nhận những lời chúc phúc. Mặc dù đã có những thay đổi cho phù hợp với đời sống mới nhưng về cơ bản, những nghi thức vẫn được gìn giữ theo đúng luật Hồi giáo.
Cuối bữa ăn, sẽ có 3 loại bánh là bánh ha bum (bông lan), tapaikagah, gti kling (bánh ba lỗ) là bánh truyền thống là dạng bánh chay để dùng cho tráng miệng.
Sau bữa ăn tối, trong phòng cưới, bốn người phụ nữ sẽ chuẩn bị một vật dụng đựng (xô, thau…) thả vào đó 10 đồng bạc cắc (tiền xu, đồng hoa xòe). Cô dâu và chú rể sẽ mò, ai mò được nhiều hơn người đó sẽ có tiếng nói hơn trong cuộc sống gia đình sau này.
Người Chăm thường rất tôn trọng các quyết định của con cái. Ngay sau khi lấy chồng, theo luật Hồi giáo, chú rể sẽ phải ở rể 3 ngày. Sau đó đôi vợ chồng trẻ có thể quyết định ra ở riêng hoặc ở nhà trai, nhà gái tùy theo mong muốn.
Phong tục cưới cổ truyền của người Việt
Nghi lễ đám cưới người Việt
Phong tục cưới hỏi của dân tộc Khomer Nam Bộ
Phong tục tập quán ba miền Bắc Trung Nam trong cưới xin
Ðám cưới của người Dao ngày xưa
Phong tục cưới miền Bắc
Tục lệ cưới hỏi ở miền Nam
(st)