Phong tục cưới hỏi của người Hà Nội
Phong tục cưới hỏi của người Dao Tuyến
Phong tục cưới hỏi của người Mường Hòa Bình
Làng của người Gié Triêng gồm nhiều dòng họ, chủ yếu như: Căp Năng, E đuồt, Na Xó, Bluông, Bruốt, Khoông… Số thành viên trong làng không cố định mà phụ thuộc vào sự di chuyển liên tục của các gia đình nhỏ trong gia đình lớn. Một điểm cần lưu ý là những người cùng dòng họ không được có quan hệ hôn nhân.
Tính trung gian giữa mẫu hệ và phụ hệ trong gia đình của người Gié Triêng dựa trên sự bình đẳng nam nữ. Con trai sinh ra mang họ bố, con gái theo họ mẹ, đó là những nét nổi bật trong hôn nhân và gia đình của người Gié Triêng. Tuy nhiên, phần chủ động trong việc lựa chọn bạn đời lại thuộc về người con gái. Nếu cô gái yêu ai thì tìm cách đánh tiếng trước. Nếu người con trai không đồng ý, người con gái có thể nhờ bạn bè dùng vũ lực bắt cóc. Và nếu chuyện này xảy ra thì mọi người trong làng cũng không lấy gì làm ngạc nhiên. Trong trường hợp người con trai đồng ý, tối tối anh ta sẽ tự nguyện đến với cô gái. Ở xã Đắc Choong - Mường Hoong, người con gái đến tuổi trưởng thành được bố mẹ dựng cho một chiếc chòi nhỏ ở rìa làng làm nơi hò hẹn với bạn tình. Theo tập tục, người con trai chỉ được đến đó hẹn hò không quá 5 tối. Nếu quá thời hạn đó mà gia đình nhà trai chưa ngỏ lời với nhà gái thì làng có quyền phạt vạ 1 con heo và 10 ché rượu.
Thường thường, đôi trai gái yêu nhau luôn được bố mẹ ưng thuận. Sau đó hai bên gia đình sẽ chuẩn bị lễ cưới mà không tiết lộ cho người ngoài biết. Họ quan niệm lễ cưới được tổ chức càng bất ngờ bao nhiêu thì sau đó cuộc hôn nhân càng hạnh phúc bấy nhiêu. Hôm tiến hành hôn lễ, cô dâu bí mật trốn vào rừng để dân làng đi tìm và bắt về. Có lẽ tập tục này có liên quan đến tục cướp vợ xưa kia của vùng Gié Triêng. Sau khi bắt được cô dâu, lễ Bla lập tức được tiến hành. Trong buổi lễ, dân làng vây quanh những ché rượu cần. Cô dâu và chú rể được bố trí ngồi đối diện nhau trước mặt người chủ hôn. Người chủ hôn cầm tay đôi tân hôn đặt lên một con gà. Tiếp đến, mọi người có mặt đều chạm tay vào con gà đó. Nếu ai không làm như vậy đều không có quyền tham gia bữa tiệc. Con gà đó được giết thịt và nấu với cơm. Đôi tân hôn mỗi người được một nắm cơm và một miếng gan gà. Họ ăn rồi đổi cho nhau, sau đó uống chung một bát rượu cần để kết thúc nghi lễ thứ nhất. Lễ bla được tổ chức khác nhau tùy theo từng nơi. Ở Xóp Nghét, lễ này còn được gọi là “lễ ăn cơm canh” (gọi là tuôm xa boóc, xa xế). Hôm đó, cô dâu và chú rể được bắt về ngồi đối diện nhau trên chiếc chõng tre, trước mặt ông mối với một bát cơm và một bát canh. Đôi tân hôn thay nhau ăn bằng một cái thìa gỗ.
Ở vùng Xê Cang Máng, lễ bla được tổ chức đơn giản hơn. Hôm đó, người chủ trì buổi lễ đánh chiêng, tập trung dân làng tại nhà gái rồi cử một số thanh niên đi bắt đôi trai gái về. Theo tập tục, đôi trai gái phải nằm chung trên một chiếc chõng tre ở giữa nhà và đắp chung một chiếc chăn mỏng. Người chủ trì buổi hôn lễ bứt mấy sợi tóc của đôi tân hôn đó bỏ lên đầu nhau.
Tiếp đó là nghi lễ tava được tổ chức sau lễ bla vài tháng. Người ta làm thịt một con lợn, chia đôi cho hai bên gia đình làm tiệc mời làng. Ngược lại, mọi người cũng mang quà, rượu đến mừng gia chủ.
Nghi lễ thứ ba là talu, được tiến hành trong nội bộ hai gia đình. Thực chất đây là bữa cơm thân mật, nhận họ hàng, nhận thành viên mới của hai họ.
Sau đó nhiều tuần lễ, nhà gái mang củi sang nhà trai xếp thành từng đống lớn để làm lễ loong (củi). Người ta vẩy rượu lên những đống củi và khấn thần linh phù hộ cho đôi vợ chồng sinh được nhiều con cái, khỏe mạnh… Trong lễ này, nhà trai tặng nhà gái một số đồ đan, nhà gái tặng nhà trai những sản phẩm dệt, ở vùng Đắc Pét là sản phẩm của nghề gốm do chính tay phụ nữ làm ra.
Nghi lễ thứ năm là cheo yêng (rời bỏ nhà rông). Sau lễ này đôi tân hôn từ biệt ngôi nhà công cộng trở về chung sống với cha mẹ. Thực chất là buổi lễ tạm biệt những bạn bè mà trước đây họ đã cùng nhau sinh hoạt và ngủ đêm tại nhà rông. Sau lễ này, người chủ hôn dẫn đôi vợ chồng về nhà, đặt tay họ lên con lợn sẽ hiến sinh. Khi giết lợn, họ lấy tiết bôi lên giường cưới, với ngụ ý là cầu cho đôi vợ chồng ấy có được nhiều con cái.
Đây là một tập tục đẹp và khá độc đáo của người Gié Triêng, thể hiện quan niệm về hôn nhân và hạnh phúc gia đình, phần nào đó là sự đề cao quyền tự chủ của nữ giới trong việc lựa chọn bạn đời và quyết định hạnh phúc của chính mình.
Do ảnh hưởng chế độ mẫu hệ, nên người con gái Giẻ Triêng đến tuổi trưởng thành sẽ chủ động nhờ người bạn gái thân của mình tặng quà qua lại với người con trai mà cô gái để ý tới.
Nếu chàng trai thuận tình, cô gái sẽ gửi lời mời cho chàng trai sang nhà Rông ngủ chung. Đêm đó, nếu chàng trai có giấc mơ xấu thì tình duyên sẽ không thành; nếu là giấc mơ đẹp, nghĩa đã hợp nhau, hai người liền về thưa với cha mẹ để nhờ người mai mối làm cầu nối cho cuộc hôn nhân.
Sáng ngày diễn ra lễ cưới, họ hàng nhà gái cõng củi (lễ vật không thể thiếu trong lễ cưới của người Giẻ Triêng) sang nhà trai do cô dâu dẫn đầu. Số lượng củi nhiều hay ít tùy theo số lượng người thân bên nhà chồng. Củi được nhà chồng chia cho người thân thích trong họ, giữ lại một phần để khi nào nhà có việc mới đem dùng chụm lửa, nhóm bếp. Chuyển củi xong, đôi trai gái cùng bố mẹ, họ hàng vào trong nhà đã có sẵn rượu, lợn, gà, gùi đựng đồ… để làm lễ, do người mai mối điều hành.
Lợn bên nhà trai do nhà gái chọc tiết. Họ hàng có mặt, người đứng sau đặt tay lên lưng áo người chọc tiết lợn, cứ vậy, người sau đặt tay lên áo người trước nối thành hàng dài để cùng cầu nguyện cho đôi vợ chồng trẻ và chính bản thân mình được khỏe mạnh, hạnh phúc, no đủ, không ốm đau…
Sau đó, nhà trai làm thịt lợn nấu nướng cùng các loại thực phẩm khác đem rượu, cơm lam ra cùng ăn uống. Sau khi ăn uống xong, ngoài việc nhà trai đem tặng nhà gái một đùi sau của con lợn, gạo, muối, ớt, bầu rượu…
Tất cả được bỏ vào gùi để nhà gái mang về. Người mai mối lại làm tiếp chủ lễ Tặng lễ vật. Đôi trai gái cùng bố mẹ đứng trước cái gùi đựng trang phục đã được cô gái chuẩn bị trước, họ hàng nhà gái lấy ra một chiếc váy đẹp nhất cho cô dâu mặc, sau đó mọi người lấy rượu trong ghè ra ống hoặc vỏ bầu mời nhau bằng lời hát, mời qua mời lại.
Nhà trai sẽ chuẩn bị những thứ như: Gùi, cuốc, rìu, rựa, ná… trước khi mang những thứ đó sang nhà gái, người cha căn dặn chú rể từ cách mài rựa cho sắc, cách lên dây ná cho căng… để chú rể sẵn sàng cho cuộc sống tự lập.
Sau khi nghỉ một ngày, họ hàng nhà trai cùng những người mai mối sang nhà gái, mọi lễ thức lại diễn ra như bên nhà trai. Nhà trai chọc tiết lợn bên nhà gái… mọi người lại ăn uống, hát đối đáp giao duyên chúc cho đôi vợ chồng trẻ sống hạnh phúc bền lâu.
Chú rể ở bên nhà vợ chừng một tuần, sau đó đôi vợ chồng trẻ chính thức về bên nhà trai để xây dựng cuộc sống riêng. Trước khi về nhà trai, đôi vợ chồng trẻ cùng nhau vác rựa, ná… lên thăm rẫy, coi như ra mắt người chủ mới của nương rẫy. Mẹ vợ bảo ban dạy cô dâu cách dệt vải, cài hoa…
Khi đôi vợ chồng từ biệt nhà gái về nhà trai, bố mẹ cô gái tặng cho đôi vợ chồng một cây cài cửa, giỏ muối bỏ bếp và con chó đưa chân. Đây là những vật có ý nghĩa mong cho tình cảm vợ chồng bền chặt, ấm tình.
PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI GIẺ TRIÊNG
Bước sang tuổi 15, các cô gái Giẻ Triêng bắt đầu hành trình đi “kiếm củi hứa hôn” để “bắt chồng”.
|
Nhiều củi tình yêu càng mặn nồng
Theo một người già nhất trong làng cho biết, con gái người dân tộc Giẻ Triêng ở cực Bắc Tây Nguyên khi bước qua tuổi 15 bắt đầu nghĩ tới việc vào rừng đốn củi để đủ điều kiện “bắt chồng”.
Mỗi lần lên rẫy, các bà mẹ lại chỉ dẫn tỉ mỉ cho các cô con gái bé nhỏ của mình cách nhận biết cây củi “hứa hôn”. Tiêu chí đốn củi nhiều, đẹp, đều đồng nghĩa với việc sau này tình yêu đôi lứa của cô gái này với chàng trai càng trở nên sâu nặng.
|
Theo phong tục người Giẻ Triêng, trước khi tiến hành nghi lễ “bắt chồng” thì người con gái phải đốn đủ 100 bó củi (dài từ 80 — 90 cm), điều này đã đi vào đời sống của mọi người hàng ngàn năm nay và trở thành “luật bất thành văn”.
Củi hứa hôn nhất thiết phải là cây dẻ, một loại cây mọc khá thẳng, vừa chắc phơi khô và cõng về nhà, khi đốt rất đượm than.
Khi đã chuẩn bị củi hứa hôn đồng nghĩa với việc đã biết tỏ tình. Củi hứa hôn là của hồi môn nhà con gái đem dành cho nhà trai.
|
Sau khi đã chuẩn bị đủ số lượng củi, cố tìm đến chàng trai mà mình “ưng cái bụng” để “đánh tiếng”, nếu chàng trai đồng ý thì buổi tối tự nguyện đến tâm sự với cô gái tại nhà Rông.
Theo phong tục ở đây, chỉ cần quan sát củi hứa hôn có thể đoán biết được phẩm chất, tài khéo léo của người thiếu nữ đó, giỏi giang hay vụng về. Cây củi được chặt bằng, bó củi đều nhau có nghĩa cô con dâu khéo tay.
Thiếu nữ phải dùng dao chặt củi thật tỉ mỉ thành 5 cánh nhưng từng thanh củi nhất thiết không được rời ra.
Theo tục trước đây, khi đi đốn củi hứa hôn, người con gái phải tự mình vào rừng tìm cây và đốn củi mang về, nhưng nay, người thiếu nữ có thể nhờ người thân giúp đỡ.
|
Theo tục lệ cũ, con trai khoảng 10 tuổi bắt đầu ngủ đêm tại nhà Rông, sau đó vài ba năm sẽ lấy vợ. Con gái chủ động trong việc hôn nhân của mình và sự lựa chọn của con cái được cha mẹ tôn trọng.
Trước khi lập gia đình, con trai phải biết đan lát, biết tấu chiêng cồng, các cô gái phải thạo đan chiếu, dệt vải (ở những vùng có nghề dệt). Cô gái phải chuẩn bị đủ 100 bó củi đẹp để nộp cho nhà trai trong lễ cưới.
Đêm tân hôn không được ăn trái cấm
Sau đám cưới, đôi vợ chồng trẻ được phép ngủ chung với nhau môt sạp nhưng tuyệt đối không được làm “chuyện đó" trong đêm tân hôn mà phải sau ngày cưới một năm, đôi vợ chồng trẻ mới được ăn trái cấm.
|
Từ xưa nay ai cũng vậy, ai chưa đủ một năm đã sinh con thì bị làng phạt vạ, nhẹ nhất là một con heo, còn nặng thì một con bò.
Các chàng trai người Giẻ Triêng sau khi tiến hành hôn lễ, phải cắp quần áo sang nhà gái làm phận nô tỳ, thường chàng trai phải ở rể 3 năm trở lên, coi đây là nghĩa cử báo đáp công nuôi dưỡng sinh thành của gia đình nhạc phụ.
|
Trong qui trình hôn lễ của người Giẻ - Triêng, sau khi tổ chức xong các nghi lễ trước hôn nhân , như : Lễ đính hôn (long), lễ hợp cẩn (bla), lễ trình làng (tava), lễ ra mắt họ hàng (talu)... ...Và lễ giã từ nhà rông thì họ tiếp tục chuẩn bị tổ chức một số nghi lễ chính.
Quy trình hôn lễ chính này thường được người Giẻ - Triêng tiến hành trong giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 11 hàng năm vì khi đó mới thu hoạch xong mùa màng (nông nhàn), điều kiện vật chất tốt, có nhiều thời gian rỗi, thời tiết thuận lợi và trời đẹp…. Quy trình hôn lễ này thường được tổ chức trong 3 ngày:
Ngày thứ nhất – Ngày chuyển củi – Ngày hỏi:
Củi cưới có vị trí quan trọng trong chuyện hôn nhân của người Giẻ – Triêng.
Củi cưới là của hồi môn, là lễ vật thiêng liêng do người con gái chuẩn bị trong thời gian chuẩn bị lấy chồng . Kết quả nhiều hay ít, xấu hay đẹp là biểu hiện về sự trưởng thành, khả năng làm chủ gia đình mẫu hệ của người con gái. Vì vậy, khi bước vào quy trình chính của hôn lễ, người con gái xin ý kiến của Già làng, gia đình chuyển đống củi cưới cô đã chuẩn bị sang nhà trai. Vì vậy, người Giẻ - Triêng còn gọi củi cưới là củi bắt chồng , củi cho chồng . Trong ngôn ngữ và thực tế, người Giẻ - Triêng không có ngày “ăn hỏi”, không có từ đám hỏi, họ có ngày chuyển củi sang nhà trai, là ngày cõng củi và họ coi đó là ngày hỏi, đám hỏi. Người cõng củi trong ngày này, ngoài cô dâu (bắt buộc) còn có các cô gái đã có chồng trong làng giúp cô (trừ các cô gái chưa chồng). Việc chuyển củi cưới, dù ít hay nhiều cũng phải chuyển xong trong một ngày, nếu quá nhiều, hoặc khoảng cách giữa hai nhà quá xa thì phải nhờ thêm nhiều người giúp. Chính vì lý do đó, nhiều cuộc chuyển củi cưới có đoàn người cõng củi khá đông, có khi đến trên 20 người. Khi lượng củi chuyển qua nhà trai được khoảng hai phần ba, một số đàn ông nhà gái tới chặt cây, đào lỗ chôn cột, chuẩn bị cho việc xếp củi vào ngày hôm sau.
Ngày thứ hai – Ngày xếp củi – Ngày cưới:
Ngày xếp củi được coi là ngày cưới nên cũng có nghi lễ trong khi xếp củi. Sau khi củi cưới đã được rã ra, sẵn sàng cho việc xếp củi, cô dâu phải lấy những thanh củi đầu tiên, tự tay đưa cho chồng, rồi người chồng mới chuyển chúng cho bố mẹ của mình để họ tự tay xếp lượt củi cưới đầu tiên lên dàn khuôn đã chuẩn bị sẵn (dàn đáy). Sau nghi lễ đó những người thân mới tiếp tục xếp củi cưới thành khối vuông vức. Theo phong tục của người Giẻ – Triêng, sau khi nhà trai nhận củi, đôi trai gái đó coi như đã thành vợ, thành chồng, họ không được quan hệ tình cảm (yêu) với người khác. Trong ngày xếp củi, nhà trai làm cơm đãi những người xếp củi và nhà gái. Hoàn tất việc xếp củi, phần nghi lễ trong quy trình hôn lễ coi như đã hoàn tất, phần còn lại chỉ là việc tổ chức tiệc cưới chiêu đãi làng và người thân.
Ngày thứ ba – Tiếp đãi khách và tiệc cưới:
Một việc rất quan trọng là cuối ngày xếp củi, hai bên gia đình phải (phong tục, bắt buộc) trồng cây nêu để thông báo với mọi người trong làng, khách ở gần xa biết việc tổ chức đãi tiệc và biểu diễn nghệ thuật dân gian trong dịp cưới. Việc làm cây nêu được Già làng hoặc những người thông thạo phong tục hướng dẫn, giúp đỡ. Không khí trong làng vào dịp này rất nhộn nhịp, người lớn thì bàn bạc cách thức tiến hành hôn lễ, chuẩn bị lương thực, thực phẩm để làm tiệc đãi khách. Các nghệ nhân tập lại các tiết mục nghệ thuật dân gian, trai gái thì chuẩn bị trang phục, cồng chiêng, nhạc cụ… và lo các việc khác phục vụ ngày cưới. Trẻ em thì phấn khởi vì được mặc áo đẹp, được xem văn nghệ… và quan trọng hơn là được ăn ngon. Vật chất đãi tiệc trong hôn lễ, quan trọng nhất là rượu cần. Vì vậy, tối thiểu nhà trai cũng như nhà gái phải chuẩn bị từ 20 đến 30 ghè (ché). Số rượu này một phần do gia đình chuẩn bị trước, một phần do người trong dòng tộc, người thân cho. Đối với thực phẩm, bò và heo được mổ thịt ngay trong đêm, một số thịt được nướng sơ rồi sau đó mới mang đi để chế biến thành các món ăn. Số thịt heo, thịt bò còn lại được xẻ thành từng miếng gần bằng nhau, xâu bằng lạt tre để làm quà chia đều cho bà con, họ hàng và cả khách thập phương đến làng vào dịp đám cưới. Việc làm tiệc cưới, không nhất thiết ngày thứ ba cả hai bên đều phải làm, nó tùy thuộc vào khoảng cách giữa hai gia đình gần hay xa, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi bên chuẩn bị ra sao.
Nếu hai bên cùng đã chuẩn bị tốt và họ cùng làng thì có thể tiến hành tổ chức tiệc cưới trong cùng một ngày. Khi đó, nếu ai có họ với bên nào thì sẽ đến bên đó trước, sau đó họ sẽ tiếp tục đến dự ở nhà bên kia. Đối với cô dâu, chú rể phải đi cùng nhau ở cả đôi bên, bên nào trước đều được để nhận lời chúc mừng hạnh phúc của mọi người. Trường hợp bên nào chưa chuẩn bị xong thì làm sau nhưng không được kéo dài quá thời điểm vợ chồng sinh con đầu lòng. Việc chưa tổ chức xong tiệc cưới thì coi như là vẫn còn nợ làng và nếu kéo dài tới quá khi sinh con đầu lòng thì vô cùng tủi hổ, dù sau này có trả được vẫn bị chê cười, thậm chí còn bị đòi hỏi thêm nhiều thứ khác giống như là bị phạt. Ngày nay, do kinh tế phát triển, tiệc tùng không quá linh đình nên chuyện nợ tiệc cưới gần như không còn nữa vì vậy ngay sau ngày xếp củi thì cả hai bên đều đã chuẩn bị chu đáo và cùng đãi tiệc mọi người. Đặc biệt, khách lạ khi đến làng người Giẻ – Triêng thấy có cây nêu, có đãi tiệc thì có thể vào bên trai hay gái đều được và luôn được đón tiếp chu đáo, không phải kiêng cữ hay phải có quà mừng gì. Không những thế, khi ra về lại còn được chia một phần quà như tất cả người thân trong làng, trong dòng họ. Biểu diễn nghệ thuật là nội dung không thể thiếu trong dịp cưới mà trong đó cồng chiêng có vị trí quan trọng. Khi việc ăn uống tương đối đầy đủ, họ bắt đầu hát, họ hát các bài hát có nội dung chúc mừng gia đình, chúc đôi bạn trẻ mau chóng có con, có cháu….
Cứ thế cuộc vui kéo dài tới chiều tối thì chiêng trống nổi lên, trai gái trong làng thay những bộ váy áo mới, mọi người đều trong trạng thái vui vẻ. Khi men say đã ngấm, họ tiếp tục nhảy múa, ca hát và nếu ai đó say quá thì có thể về hoặc kiếm chỗ nghỉ tạm để khi tỉnh lại tiếp tục ăn uống, hát và nhảy múa. Vào thời điểm biểu diễn nghệ thuật, khi âm vang của cồng chiêng trầm hùng vang vọng khắp núi rừng, thấm sâu vào lòng đất, kết hợp với các điệu xoang của các chàng trai cô gái trong trang phục truyền thống và rượu cần , đã tạo nên một tổ hợp các hoạt động. Khi rượu cần đủ ngấm, bước xoang ngất ngây trong tiếng cồng chiêng thì tâm hồn mỗi người dự cuộc vui ngày cưới càng thêm cởi mở. Con người, thiên nhiên, đất trời càng xích lại gần nhau, gắn bó với nhau và dường như họ muốn cỏ cây, muông thú, đất trời cùng say chung với mình, cùng vui chung với mình.
Củi hứa hôn và phong tục cưới hỏi của người Giẻ Triêng
Bước vào tuổi cập kê, các cô gái Giẻ Triêng bắt đầu hành trình đi kiếm “củi hứa hôn” để “bắt chồng”.
Đến các làng của người Giẻ Triêng ở Bắc Tây Nguyên, dễ thấy ở rất nhiều gia đình có những đống củi được cắt bằng nhau, xếp ngay ngắn ở đầu nhà, hoặc trước sân và được che chắn cẩn thận. Đấy chính là “củi hứa hôn” của các thiếu nữ Giẻ Triêng.
Theo phong tục của người Giẻ Triêng, khi bước qua tuổi 15, các cô gái bắt đầu nghĩ tới việc vào rừng đốn củi để đủ điều kiện “bắt chồng”. Mỗi lần lên rẫy, các bà mẹ lại chỉ dẫn tỉ mỉ cho con gái cách nhận biết cây củi “hứa hôn”. Tiêu chí đốn củi nhiều, đẹp, đều đồng nghĩa với việc sau này tình yêu đôi lứa của cô gái với chàng trai càng trở nên sâu nặng. “Củi hứa hôn” thường là những thân cây gỗ tốt, đượm than, suôn và thẳng (tốt nhất là thân cây dẻ) được đốn bằng nhau, phơi khô. Số lượng củi thường là 100 bó, chiều dài 1 mét và đường kính bó củi từ 40-50cm.
Thiếu nữ Giẻ Triêng chuẩn bị củi hứa hôn để “bắt chồng”
Người Giẻ Triêng cho rằng, chỉ cần quan sát củi hứa hôn có thể đoán biết được phẩm chất, tài khéo léo của người thiếu nữ đó, giỏi giang hay vụng về. Cây củi được chặt bằng, bó củi đều nhau có nghĩa cô gái khéo tay. Thiếu nữ phải dùng dao chặt củi thật tỉ mỉ thành 5 cánh nhưng từng thanh củi nhất thiết không được rời ra. Những thanh củi tình yêu này cũng chính là tài sản hồi môn đặc biệt của cô dâu dành để sưởi ấm cho cha mẹ chồng khi giá rét.
Sau khi đã chuẩn bị đủ số lượng củi, cô gái tìm đến chàng trai mà mình “ưng cái bụng” để “đánh tiếng”, nếu chàng trai đồng ý thì buổi tối tự nguyện đến tâm sự với cô gái tại nhà Rông. Trong thời gian đôi trai gái tìm hiểu nhau, một người có uy tín trong làng, không có họ hàng với hai gia đình chuẩn bị lễ vật đứng ra làm mai mối. Lễ vật bao gồm: Một hũ rượu nhỏ, hai chiếc cần (ống hút) để uống đem đến nhà trai hoặc nhà gái do người mai mối chọn (thường thì nhà chàng trai) và gọi người con gái đến cùng uống rượu. Sau khi đôi trẻ đã uống, cha mẹ của chàng trai sau đó là người mai mối cùng uống rượu chung vui. Cũng trong thời gian uống rượu và trò chuyện, người mai mối trình bày nội dung của buổi uống rượu hôm đó. Khi hũ rượu đã được uống cạn, cũng là lúc đôi trai gái thành vợ thành chồng.
Và, tất nhiên đêm về đôi trai gái được phép ngủ chung. Tuy là vợ chồng của nhau, được ngủ chung trong chiếc buồng nhỏ dành cho họ, nhưng trong thời gian một năm ngủ chung ấy, người con gái không được phép có thai. Nếu vi phạm quy định, đôi trai gái ấy phải chịu “hình phạt” của làng, sẽ bị đuổi ra xa cách làng hơn 2km, tự làm lều để ở và cũng không được ai quan tâm thăm hỏi đến họ.
rong thời gian một năm đến ngủ chung ở nhà chồng, cô gái thường lên rừng cõng củi về cho gia đình chàng trai, thỉnh thoảng lại tự tay mình giã gạo mang đến cho “chồng”. Những người trong gia đình cô gái cũng giúp cô cõng củi về nhà tập kết và che chắn cẩn thận. Đến một ngày được xem là “ngày lành tháng tốt”, nhà gái cử người đến báo với nhà trai và tập trung họ hàng cõng củi đến nhà trai (chỉ cho phép cõng trong một ngày). Nếu gia đình nhà trai đã đi lên nương rẫy, đích thị chàng trai phải lên nương tìm gọi bằng được họ hàng về để tiếp đón nhà gái.
Không chỉ cõng củi cho gia đình chồng, mà nhà gái phải cõng cho anh chị ruột của chồng, là những người đã xây dựng gia đình ra ở riêng mỗi người 20-30 bó củi. Đáp lại tình cảm của họ hàng nhà gái, gia đình chàng trai cũng tập trung anh em lại, giã gạo, thổi cơm mời những người cõng củi ở lại “dự tiệc”. Ngoài ra, mỗi người tham gia cõng củi đều được nhà trai “tặng” một bộ áo quần, ít nhất cũng được một cái Kà Tu. Riêng anh em ruột của cô gái thì nhất thiết phải đủ mỗi người một bộ.
Sau ngày nhà gái đã cõng củi đến nhà trai, gia đình chàng trai chuẩn bị làm cơm mời nhà gái đến “dự tiệc”, để cảm ơn nhà gái đã cõng củi cho gia đình. Khi đến mời gia đình nhà gái dùng cơm, phải mang theo lễ vật là những chú chuột, chú chim đã được sấy khô chuẩn bị từ những ngày trước, số lượng từ 60-70 con tùy thuộc vào nhà trai. Sau hôm cõng củi và lễ mời cơm ấy, họ hàng hai bên mới chính thức trở hành “sui gia” và tiếp tục đi lại thăm hỏi nhau.
Phong tục tập quán của người Giẻ Triêng
Tái hiện một số hình ảnh lễ cưới của người Giẻ Triêng, tỉnh Kon Tum
Theo phong tục người Giẻ Triêng, trước khi tiến hành nghi lễ “bắt chồng” thì người con gái phải đốn đủ 100 bó củi và sản phẩm dệt để đem đến nhà chồng, điều này đã đi vào đời sống của mọi người hàng ngàn năm nay và trở thành “luật bất thành văn”. Ngày nay phong tục này vẫn còn được lưu giữ, nhưng do cần phải bảo vệ tài nguyên rừng nên số củi cũng được giảm bớt, nhưng ít nhất vẫn phải có từ 1 – 2 bó.
Theo quan niệm của người Giẻ Triêng, đây là những thanh củi “hứa hôn”, thể hiện phẩm chất, tài khéo léo, siêng năng của người con dâu. Phía nhà trai, nếu khá giả mang bò, chiêng, ché, nồi đồng và không thể thiếu đồ đan lát như gùi để tặng nhà gái. Trong lễ vật của nhà trai bắt buộc phải có chim, chuột rừng.
Lễ cưới được chính thức diễn ra dưới sự điều hành của người mai mối. Đám cưới phải được tổ chức vào ban ngày, mở đầu bằng việc chuyển củi từ nhà gái sang nhà trai.
Trong lễ cưới, người làm mai mối giết gà lấy tiết để cúng gọi các vị thần xuống chứng giám cho đôi bạn trẻ đã nên vợ nên chồng và phù hộ cho họ sau này làm ăn no đủ, sinh con đẻ cái khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc.
Một sản phẩm dệt không thể thiếu mà nhà gái đem đến nhà trai đó là tấm dồ (Rơ moong), thể hiện tấm lòng của cô dâu dành cho nhà chồng. Còn, nhà trai tặng cho nhà gái gùi, đây là sản phẩm để khoe tài năng đan lát của mình với nhà gái, chiếc gùi mang nhiều may mắn và cô dâu tương lai sẽ luôn mang chiệc gùi chứa đầy hạnh phúc.
Người làm mai mối trao cho cô dâu, chú rể cần rượu, hai người cùng uống và đổi cần rượu cho nhau, họ cùng trao nắm cơm và cùng nhau ăn (mỗi người ăn 7 nắm), thể hiện sự gắn kết hạnh phúc bên nhau suốt đời.
Sau khi làm lễ xong, người mai mối kêu gọi dân làng đến cùng chia vui và chúc phúc cho cô dâu, chú rể. Họ cùng đánh cồng chiêng, uống rượu cần, hò hát, múa xoang …
Bó củi và vò rượu cần hứa hôn của nhà gái mang đến nhà trai
Nhà gái đưa cô Dâu và đồ lễ đến nhà trai
Nhà trai nhận bó củi và vò rượu cần là đồ lễ hứa hôn của cô Dâu
Ông mối đang làm lễ thần linh cho cô Dâu và chú Rể
Cô Dâu và chú Rể cùng uống rượu cần ....................
................... cùng ăn nắm cơm hạnh phúc trong ngày trọng đại.
Dân làng cùng vui chung trong ngày lễ trọng đại của cô Dâu và chú Rể
Phục dựng lễ cưới của người Giẻ-Triêng
Ngày 9.7, Ông Phạm Cao Đạt, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tại tỉnh Kon Tum cho biết, ngành văn hóa tỉnh đã lần đầu tiên phục dựng được lễ cưới của người dân tộc Giẻ-Triêng (nhánh Triêng) tại làng Đắk Răng, xã Đắk Dục, huyện Ngọc Hồi, Kon Tum.
Đoàn nhà trai đi đón dâu. |
Lễ cưới của người Triêng được chia thành 2 phần chính: lễ đám hỏi (Ta Vuy Treng) và lễ cưới (Che Chia). Theo phong tục của dân tộc Triêng, lễ hỏi được tổ chức vào ban đêm lần lượt từ nhà trai sang nhà gái và phải bí mật (chỉ có những người thật gần gũi với chú rể và cô dâu).
Theo quan niệm người Triêng vì sợ những người xấu bụng “lời ra tiếng vào”, tác động xấu đến tình cảm của đôi trẻ mà lễ hỏi mới phải bí mật. Tại lễ hỏi, người mai mối (Chekaăm la) khấn xin phép thần linh, bắt chéo hai cần rượu đưa cho đôi trai gái uống phép cùng với một con gà lớn là vật hiến sinh, và việc cắt cổ gà ở nhà trai phải được trao cho cô gái đảm nhận.
Sau khi tiến hành xong đám hỏi ở nhà trai, nhà gái đón nhà trai và người mai mối làm đám hỏi ở nhà mình. Theo phong tục, nếu đôi trẻ không ở cùng làng thì đám hỏi bên gái sẽ tiến hành vào đêm hôm sau. Từ đây, đôi trẻ sẽ có quyền gọi cha mẹ của 2 bên và xem người thân của 2 bên như của mình.
Lễ cưới được diễn ra sau lễ hỏi từ 7 - 10 ngày dưới sự giúp đỡ của cả cộng đồng trong làng. Theo tục lệ của người Triêng, thanh niên trong làng cùng vào rừng sâu, lên rẫy, ra sông bắt con dơi, con chuột, con chim, con mang, con cá… để chế biến, phơi khô chờ ngày đám cưới. Các cô gái thì thay nhau đi hái đọt măng, rau dớn, cây chuối non… và giúp cô dâu lấy củi.
Theo quan niệm của người Triêng, đây là những thanh củi tình yêu, là tài sản hồi môn đặc biệt của cô dâu dành để sưởi ấm cho cha mẹ chồng khi giá rét.
Theo phong tục người Triêng, đám cưới không được đánh cồng chiêng. Đám cưới phải được tổ chức vào ban ngày, mở đầu bằng việc chuyển củi từ nhà gái sang nhà trai.
Lễ cưới được chính thức diễn ra dưới sự điều hành của người mai mối. Lợn phải do nhà trai chuẩn bị và đại diện nhà gái chọc tiết.
Tại nghi thức này, mọi người đứng sau chạm tay vào áo người đứng trước và chạm vào người giữ con dao chọc tiết lợn với ý nguyện chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ và bản thân mình cũng được khỏe mạnh, hạnh phúc, no đủ.
Nhà trai tặng cho nhà gái một đùi sau của con lợn, ít gạo, muối, ớt và 1 bầu rượu để nhà gái gùi mang về.
Sau khi ăn uống no say, người mai mối tiếp tục tiến hành lễ Tặng lễ vật và nhà trai, nhà gái chúc nhau bằng hình thức đối đáp, giao duyên (còn gọi là Ning).
Theo phong tục, sau đám cưới nhà trai sẽ là đám cưới ở nhà gái. Nếu đôi trai gái không ở chung làng thì sau đám cưới nhà trai, 2 bên nghỉ 1 ngày rồi qua nhà gái tổ chức. Mọi lễ thức diễn ra tương tự ở nhà trai nhưng riêng lợn nhà gái chuẩn bị phải do nhà trai chọc tiết.
Sau khi tổ chức đám cưới, chú rể phải ở lại nhà gái 1 thời gian rồi mới đưa cô dâu về nhà mình ở hẳn.
Ngày đưa cô gái về nhà chồng, gia đình nhà gái thường tặng cho nhà trai 3 món quà gồm: cây cài cửa (Tạc hleng plo), giỏ muối để bếp (Bo tô plo) và con chó đưa chân (Cho yan Jôông).
Củi - Lễ vật bắt chồng của thiếu nữ Giẻ -triêng
Là một trong những tộc người sinh sống và cư trú lâu đời trên dãy Trường Sơn – Tây nguyên, người Giẻ - triêng đã sáng tạo nên một nền văn hóa vô cùng độc đáo với những phong tục tập quán, lễ hội mang đậm dấu ấn của nền văn hóa nương rẫy. Một trong những phong tục đó là tục cưới xin của người Giẻ - triêng với củi là vật định hôn.
Cũng giống như các dân tộc khác trên dãy Trường Sơn – Tây Nguyên, phong tục cưới xin của người Giẻ - triêng cũng có nhiều công đoạn, từ việc tìm hiểu đến hôn lễ. Khi trai gái Giẻ - triêng ưng nhau qua những điệu hát đối đáp thì nhà trai, nhà giá mới bắt đầu gặp mắt để lo cưới hỏi cho đôi lứa. Nhưng trước khi tổ chức nghi lễ cưới chính thì có các nghi lễ phụ khác như: lễ đính hôn, lễ hợp cẩn, lễ trình làng, lễ ra mắt họ hàng, lễ giã từ nhà Rông. Nghi lễ cưới chính của đôi trai gái Giẻ - triêng thường được diễn ra vào tháng 10 và tháng 11 hàng năm, khi mùa màng đã thu hoạch, của cải vật chất đầy đủ, người dân bản nhàn rỗi và thời tiết cũng thuận lợi.
Theo phong tục xưa truyền lại thì, lễ cưới chính của người Giẻ - triêng thường được diễn ra trong 3 ngày với các nghi lễ như: lễ chuyển củi, lễ xếp củi và cuối cùng là tiệc đãi dân bản. Tại sao lại gọi là lễ chuyển củi, xếp củi, bởi theo các già làng kể lại thì từ xưa củi đã là vật hứa hôn của các cô gái Giẻ - triêng với chàng trai mà họ yêu. Các thiếu nữ Giẻ - triêng khi đến tuổi cập kê thường lên rừng đốn củi mang về nhà xếp thành bó dể sau này cõng về nhà chàng trai mà mình sẽ lấy làm chồng.
Củi hứa hôn có một vị trí quan trong trong hôn lễ của người Giẻ - triêng. Củi xấu hay đẹp, cong hay thẳng, nhiều hay ít thể hiện sự khéo léo, trưởng thành và khả năng làm chủ gia đình của người phụ nữ Giẻ - triêng. Ngày đầu tiên của hôn lễ chính là ngày chuyển củi mà người kinh thường gọi là ngày ăn hỏi. Trong ngày này, cô gái sẽ xin ý kiến của già làng, gia đình sau đó chuyển đống củi sang nhà trai. Đó gọi là củi bắt chồng, hay củi cho chồng.
Người cõng củi trong ngày này ngoài cô dâu còn có các phụ nữ có chồng trong làng giúp cô. Việc chuyển củi sang nhà trai, dù ít hay nhiều cũng phải chuyển xong trong một ngày. Nếu nhà cô trai và nhà gái quá xa mà củi hứa hôn lại nhiều thì cần thêm nhiều người giúp. Chính vì lý do đó, nhiều cuộc chuyển củi cưới có đoàn người cõng củi khá đông, có khi đến trên 20 người. Khi lượng củi chuyển qua nhà trai được khoảng hai phần ba, một số đàn ông nhà gái tới chặt cây, đào lỗ chôn cột, chuẩn bị cho việc xếp củi vào ngày hôm sau.
Ngày xếp củi được coi là ngày cưới nên cũng có nghi lễ trong khi xếp củi. Sau khi củi cưới đã được ngả ra, sẵn sàng cho việc xếp củi, cô dâu phải lấy những thanh củi đầu tiên, tự tay đưa cho chồng, rồi người chồng mới chuyển chúng cho bố mẹ của mình để họ tự tay xếp lượt củi cưới đầu tiên lên dàn khuôn đã chuẩn bị sẵn (dàn đáy). Sau nghi lễ đó những người thân mới tiếp tục xếp củi cưới thành khối vuông vức.
Theo phong tục của người Giẻ – Triêng, sau khi nhà trai nhận củi, đôi trai gái đó coi như đã thành vợ, thành chồng, họ không được quan hệ tình cảm (yêu) với người khác. Trong ngày xếp củi, nhà trai làm cơm đãi những người xếp củi và nhà gái. Hoàn tất việc xếp củi, phần nghi lễ trong quy trình hôn lễ coi như đã hoàn tất, phần còn lại chỉ là việc tổ chức tiệc cưới chiêu đãi làng và người thân.
Một việc rất quan trọng là cuối ngày xếp củi, hai bên gia đình phải (phong tục, bắt buộc) trồng cây nêu để thông báo với mọi người trong làng, khách ở gần xa biết việc tổ chức đãi tiệc và biểu diễn nghệ thuật dân gian trong dịp cưới. Việc làm cây nêu được Già làng hoặc những người thông thạo phong tục hướng dẫn, giúp đỡ.
Không khí trong làng vào dịp này rất nhộn nhịp, người lớn thì bàn bạc cách thức tiến hành hôn lễ, chuẩn bị lương thực, thực phẩm để làm tiệc đãi khách. Các nghệ nhân tập lại các tiết mục nghệ thuật dân gian, trai gái thì chuẩn bị trang phục, cồng chiêng, nhạc cụ… và lo các việc khác phục vụ ngày cưới. Trẻ em thì phấn khởi vì được mặc áo đẹp, được xem văn nghệ… và quan trọng hơn là được ăn ngon.
Vật chất đãi tiệc trong hôn lễ, quan trọng nhất là rượu cần. Vì vậy, tối thiểu nhà trai cũng như nhà gái phải chuẩn bị từ 20 đến 30 ghè (ché). Số rượu này một phần do gia đình chuẩn bị trước, một phần do người trong dòng tộc, người thân cho. Đối với thực phẩm, bò và heo được mổ thịt ngay trong đêm, một số thịt được nướng sơ rồi sau đó mới mang đi để chế biến thành các món ăn. Số thịt heo, thịt bò còn lại được xẻ thành từng miếng gần bằng nhau, xâu bằng lạt tre để làm quà chia đều cho bà con, họ hàng và cả khách thập phương đến làng vào dịp đám cưới.
Ngày nay, do kinh tế phát triển, tiệc tùng không quá linh đình nên chuyện nợ tiệc cưới gần như không còn nữa vì vậy ngay sau ngày xếp củi thì cả hai bên đều đã chuẩn bị chu đáo và cùng đãi tiệc mọi người. Đặc biệt, khách lạ khi đến làng người Giẻ – Triêng thấy có cây nêu, có đãi tiệc thì có thể vào bên trai hay gái đều được và luôn được đón tiếp chu đáo, không phải kiêng cữ hay phải có quà mừng gì. Không những thế, khi ra về lại còn được chia một phần quà như tất cả người thân trong làng, trong dòng họ. Đây là một phong tục tốt đẹp cần được giữ gìn và phát huy cho các thế hệ con cháu của người Giẻ - triêng.
Phong tục cưới cổ truyền của người Việt
Phong tục cưới hỏi của người Nhật Bản
Phong tục cưới hỏi ở Việt Nam
Phong tục cưới hỏi của người Hoa
Phong tục cưới hỏi của người Chăm
Phong tục cưới hỏi của người Thái
(st)