Phong tục cưới hỏi của người Lào

Theo tập tục bên Lào, sau hôn lễ chú rể về ở nhà cô dâu người Lào gọi là Vivahamongkhon.


 

Con gái Lào, từ 16 tuổi trở lên, được tự do tiếp bạn trai tại nhà, có thể cùng bạn trai đi dự các buổi lễ (Bun), hội chợ (Ngan) trong hay ngoài làng. Tình cảm đôi lứa nẩy nở cũng từ sự giao thiệp cởi mở trong khuôn khổ lễ giáo đó. Người Lào quan niệm vấn đề nam nữ như Cát với Nước, cát với nước tự nhiên thu hút nhau qua tiếp xúc, giao tế. Còn Việt Nam thì cho chuyện tiếp xúc giữa trai gái giống như Lửa với Rơm, do đó mà mới có câu “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”!

Phong tục cưới của người Lào có các tục lệ như:

Tục Bắn Tin ( Thạp Tham) ở hai nước đều giống nhau tức cha mẹ chàng trai nhờ ông hay bà mai (tiếng Lào: Phò sừ, Mè sừ) đưa tin cho cha mẹ cô gái ý định của mình. Và tuy tự do, cởi mở nhưng cô phù-sáo ( thiếu nữ Lào) cũng vùng vằng e lệ, đỏ mặt ngượng ngùng giống những cô gái các nước Á châu khác khi cha mẹ nêu câu hỏi "chịu" hay "không chịu" . Nàng cũng sẽ trả lời: con không biết, con không lấy chồng đâu, con sẽ ở vậy với cha mẹ suốt đời…

Lễ vật ăn hỏi của người Lào gọi là Khà Đoong. Trong bộ luật hôn nhân của Lào các điều khoản Khà Đoòng rất “linh hoạt” song thực tế lại "không có không được", bắt buộc nhà trai phải nộp cho nhà gái. Dĩ nhiên số lượng cao thấp là do tài thương lượng, điều đình của ông hay bà mai với cha mẹ cô gái. Ở tỉnh thành, phần vật liệu thách cưới thường chỉ tính bằng tiền hay vàng ta. Ở nông thôn lại có cả trâu bò, ruộng đất. Khà Đoòng chỉ phải nộp trong ngày cưới và sẽ được nói rõ trong hôn lễ chính thức.

Nghi thức đám cưới: Người Lào có tục lệ chỉ cưới gả nhau vào những tháng chẵn. Tháng sáu là tháng tốt nhất vì nhằm mùa Bun Bang Phay tức lễ cầu mưa. Tháng sáu cũng là tháng cuối cùng vì qua tháng bảy là mùa đồng áng, còn tháng tám lại nhằm mùa Khậu Vặt Sá tức mùa cấm phòng của chư tăng ni hệ tiểu thừa kéo dài mãi đến trăng tròn tháng 11.Đây là khoảng thời gian người Lào tuyệt đối Kha-lăm (kiêng cữ), nên đành chờ đến tháng 12. Ngày tốt, người Lào chọn 15 ngày trước khi trăng tròn, ngụ ý duyên phận vợ chồng son sẽ ngày càng gắn bó, thắm thiết, càng sáng tỏ, đẹp như trăng.

Lễ nghinh hôn: Như đã nói, người Việt đón dâu, người Lào đưa rể. Hình thức và nội dung nghi lễ trong hôn nhân Lào bao gồm những lễ sau: Su-khoắn (soukhouan), Ba-xí (baci) và Phục-khén (phoukkhen) là Ba danh xưng khác nhau để chỉ định Một hình thức tổ chức biểu hiện Một nội dung tín ngưỡng giống nhau. Su-khoắn có nghĩa là Cầu Vía vì vía vốn phiêu lãng chỉ muốn rời khỏi xác. Su-khoắn là danh xưng phổ thông để chỉ định nghi thức tín ngưỡng Cầu viá. Ba-xí là biệt từ chỉ định lễ Su-khoắn trong hoàng gia, vọng tộc hay trong giới trưởng giả phú quí. Phục-khén (buộc chỉ cổ tay) là tên bình dân của Su-khoắn.

Hình thức vật chất của Su-khoắn là Pha-khoắn. Pha-khoắn nghĩa là một cái mâm hay " mâm tiệc cho viá ", gồm các ô và khán (loại mâm nhỏ) được để chồng lên nhau ; trên mỗi ô và khán được cắm nhiều ống như " ống loa " làm bằng lá chuối xanh phủ đầy hoa đủ màu. Trên đỉnh Pha-khoắn là một " ống loa " to nhất cũng làm bằng lá chuối nhưng đặc biệt là hoa Champa được nâng niu kết lại trên từng cái găm dài nhỏ bằng gỗ, hay bằng tre, cắm rủ dài xuống trông giống như mái tóc bạch kim lóng lánh. Ngoài ra trên Pha-khoắn ta còn thấy có cả trầu cau, thuốc lá, trứng luộc ; xôi, rượu, bánh trái, tiền, nhang, nến và những sợi dây màu trắng, dệt bằng vải bông… Trong các buổi lễ khác, Pha-khoắn nhỏ hay lớn, ít hay nhiều tầng (nhiều mâm nhỏ chồng lên nhau) , lượng lễ vật ra sao là tùy hoàn cảnh tài chính của gia chủ. Hai Pha-khoắn trong trong ngày cưới đặc biệt hơn thường lệ, nhiều khi cao tới 7 hay 9 tầng, chu vi cả thước và có cả tiền lẫn vàng. hoa Champa thì được thay bằng Đoọc Hặc (hoa Cau). Nghi lễ Su-khoắn phải được diễn ra nơi trang trọng nhất trong nhà, thường là phòng khách, nhân dịp này lại được lau chùi, dọn dẹp kỹ hơn, bày biện mỹ thuật, vui mắt hơn nên trông sang trọng vô cùng. Người được mời làm chủ lễ theo lẽ là các vị sư, song thực tế thường là do một Chan hay một Thít tức tu sĩ đã hoàn tục, nếu không, ít ra cũng phải là một Mó-Khoắn (còn được gọi là Mó-phon, tức thầy cúng) hoặc một cụ ông tóc bạc, tiên phong đạo cốt, rành chuyện tụng niệm, lễ bái ; vận toàn đồ trắng. Rồi trong khung cảnh đông đủ mà lặng, nghiêm, dưới làn khói nhang mờ ảo, thoang thoảng mùi thơm của nhiều loại hoa, hoà hợp với mùi thơm siêu thoát của hàng ngàn đoá Champa … mọi người hiện diện chung quanh Pha-khoắn đều chấp tay trước ngực hay trước trán, khi vị chủ lễ, ngồi xấp bằng trên chiếu hay thảm, an vị theo hướng tốt đã chọn kỹ, đối diện người được hân hạnh nhận lễ Su-khoắn, bắt đầu cất tiếng Suột Môn (tụng kinh).

 

Trong mỗi cuộc hôn nhân, theo phong tục Lào, có tất cả ba lễ Su-khoắn:

-    Do gia đình nhà chú rể tổ chức riêng cho chàng.
-    Do gia đình nhà cô dâu tổ chức riêng cho nàng.
-    Do hai gia đình nhà sui gia cùng tổ chức.

Bài kinh cầu trong buổi lễ thứ nhất và thứ hai có nội dung tốt đẹp gần giống nhau, nhắc nhở cô dâu chú rê về công đức sinh thành của cha mẹ,v.v… Bài kinh trong buổi lễ thứ ba có nội dung đặc thù cho tình nghĩa vợ chồng, bổn phận dâu rể. Trước mâm Pha-khoắn, chú rể ngồi bên phải, cô dâu bên trái.

Cuối cùng là lễ đưa rể:  Theo phong tục thì cuộc đưa chồng về nhà vợ được tổ chức sau ngày làm lễ Su-khoắn nhưng để tiện việc tổ chức, lễ này thường được tiến hành ngay hôm đó.

Đến giờ lành, phái đoàn nhà trai - tuyệt đối không có các bà goá hay li dị - mang lễ vật đã được đôi bên thoả thuận đến nhà gái. Hai Pha-khoắn nói trên đã được mang đến nhà gái từ trước.

Phái đoàn nhà trai tiến dần về hướng nhà gái trong tiếng reo hò, lăm, khắp, xởng (các điệu hát, hò … đặc biệt của Lào) hoà lẫn âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền Lào, đại để trống, sáo, nhị, chuông … và Khèn, như để báo tin vui cùng trời đất, cùng xóm làng.

Trước khi được phép vào nhà cô dâu, phái đoàn hè-khới (đưa rể) cũng đã trải qua mấy "cửa ải" giăng dây, chận cổng, đối đáp, yêu sách tinh nghịch giống như họ nhà trai bên ta đi rước dâu vậy.

Có điều trước khi bước chân lên cầu thang - người Lào thường ở nhà sàn -, chẩu-bào (chú rể) phải đặt hai chân lên một miếng đá có phủ lá chuối xanh tươi do gia đình chẩu-sáo (cô dâu) chuẩn bị sẵn, một người em hay một người bà con (trai hay gái) của chẩu-sáo sẽ mang tới một ô thay thau nước cùng một tấm khăn và rửa chân thật kỹ cho chẩu-bào. Chẩu-bào phải thưởng tiền cho người thi hành lệ đó. Tục này ngụ ý chú rể về ở nhà vợ với tâm thân trong sạch. Và chính chẩu-sáo là người đứng ra nhận lễ cưới mình.

Sau đó là lễ Su-khoắn Tân Hôn rồi mới tới tiệc tùng, ca hát – ngày nay có thêm một mục là mục nhảy đầm, – thường kéo dài thâu đêm.

Ba ngày sau, chú rể đưa cô dâu về thăm cha mẹ ruột. Đây là dịp tân lang tân nương mang theo vài kỷ vật làm quà biếu cha mẹ và anh chị em chồng. Và như thế, đôi vợ chồng  mới chính thức hoà hợp vào cả hai gia đình.


 

Chia sẻ trải nghiệm Phong Tục Cưới của Lào

 

Nếu lấy thời lượng được đất nước và con người Lào cưu mang, cọng thêm những mảnh tim khi to khi nhỏ, khi nông khi sâu, khi nặng khi nhẹ … đã để lại trong lòng các nàng phù-sáo (cô gái Lào), theo lẽ người viết bài nầy phải được hân hạnh làm rể 100% đất và người Lào mới hợp tình hợp lý, thế mà tình ý định bất thắng nhân duyên.

Đôi khi một mình loay hoay với bàn phím, làm sao tránh khỏi những phút chạnh lòng nhớ về từng cảnh cũ với từng người, từng người, từng người xưa… Mà trong những lúc chạnh lòng như thế, tránh sao khỏi chuyện dòng suy tưởng thoát ly, đẩy đưa đưa đẩy tới m��ng, tới giả tưởng rằng nếu xưa mình kết được một trong mấy cô phù-sáo 100% kia, không biết nghi thức đám cưới phía nàng có gì rắc rối khác biệt, tương phản tương đồng với nghi thức phía mình không ?

Chúng tôi sưu tập trong bài nầy những nghi thức trong hôn lễ của dân tộc Lào, thỉnh thoảng khi thuận tiện sẽ bổ túc bằng vài quan niệm hay nghi thức hôn nhân Việt Nam, giới thiệu đến bạn đọc người Việt với chủ ý thử cùng nhau phản ánh phần nào những điểm tương đồng hay dị biệt trong phong tục và tập quán của hai xứ sở vốn kề sát bên nhau, lại đã có nhiều quan hệ tình cảm qua nhiều thế kỷ (1), vì dù sao hôn nhân - một nền tảng lớn của văn hoá, mà văn hoá là lẽ sống – mãi mãi là căn bản tổ chức gia đình rồi tổ chức nhân quần xã hội của bên nầy hay bên kia dãy Trường Sơn.

Có biết và hiểu tập tục cá tánh của nhau thì trong giao tế cá nhân hay trong ngoại giao giữa quốc gia với quốc gia, theo chúng tôi, không những tránh được ngộ nhận đáng tiếc mà, qua đó, còn dễ thông cảm nhau hơn, nhất là dễ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề - nếu có - giữa và với nhau hơn.Và dĩ nhiên chúng tôi cố ý tránh nhắc tới chế độ năm thê bảy thiếp, một chế độ chẳng hay ho gì, vả lại cũng đã lỗi thời ; cũng như sẽ bỏ qua trường hợp hôn nhân dị chủng Lào-Việt, Lào-Pháp, Việt-Mỹ, Việt-Đức … ; dị giáo Phật-Chúa, Phật-Hồi …

Luỵến ai giữa trai và gái :

Nguyên tắc Khổng-Mạnh «nam nữ thọ thọ bất thân» hay «nam nữ dị biệt » là do ta chịu ảnh hưởng của Tàu trong nhiều thế kỷ. Nhưng xét ra, nguyên tắc phân biệt khắt khe nầy chỉ thực sự có trong các gia đình trưởng giả, quan lại, quý tộc tức lớp người may mắn (?) được đọc sách thánh hiền… Tàu ; còn trong lớp người thường, nguyên tắc luân lý nầy xem ra rất tương đối. Nói thế là vì qua kho tàng văn thơ bình dân còn lưu giữ được tới ngày nay, lượng thơ « nam nữ hữu biệt » (so với số văn thơ « nữ nam bất biệt » ) thật không đáng kể, chẳng nghĩa lý gì. Hơn nữa nước ta là nước canh nông, đồng áng tức là sở trường của tuyệt đại đa số là lớp bình dân thì chẳng lẽ các sinh hoạt hàng ngày trên đồng trên ruộng, những lúc nghỉ ngơi trên đê, bên rạch ; những dịp hội hè, đình đám với tục Hát Ví, Hát Giặm, Hát Quan Họ, Hát Bài Chòi… giữa thanh niên thanh nữ lại không có tiếp xúc ? Nếu không có tiếp xúc thì do đâu lại có cả toà văn thơ luyến ái gái trai muôn hình nghìn dạng mà chúng ta vẫn tự hào ?

Song rốt cuộc, nguyên tắc luân lý « nam nữ hữu biệt » ấy cũng đã đi qua để gặp nguyên tắc « nam nữ bất biệt » của dân tộc Lào vốn đã thành tập tục từ xa xưa :

Trai, gái Lào làm quen, tìm hiểu nhau dễ dàng, cởi mở. Con gái Lào, từ 16 tuổi trở lên, được tự do tiếp bạn trai tại nhà, có thể cùng bạn trai đi dự các buổi lễ (Bun), hội chợ (Ngan) trong hay ngoài làng, trong tỉnh hay ở các làng phụ cận. Tình đôi lứa nẩy nở từ sự giao thiệp cởi mở trong khuôn khổ lễ giáo nầy. Người Lào quan niệm vấn đề nam nữ như Cát với Nước, cát với nước tự nhiên thu hút nhau qua tiếp xúc, giao tế. Quan niệm việt nam thì cho chuyện tiếp xúc giữa trai gái như Lửa với Rơm.Không biết tập tục của họ, nhiều anh ngoại quốc, ngoại kiều ( Tàu, Việt…) ngộ nhận sự cởi mở thành sự dễ dãi, tưởng bở nên dại dột đi tắt quá trớn và đã bị lắm phiền hà, tủi nhục.

Theo tục và luật Lào, sự ruồng rở nầy là một tội lỗi, phạm tới Phí Huốn ( thần nhà và phong tục). Chỉ cần cô phù-sáo tuyên bố đã bị chàng trai làm nhục là chàng trai phải trả một số tiền phạt (tục gọi là Pèng-Huốn). Trường hợp nầy gia đình bên cô gái sẽ cử một đại diện đi báo tin cho gia đình chàng trai. Và sau khi đã có đầy đủ chứng cớ, các phù-thậu, phù-kè (bô lão) trong làng hay trong tỉnh sẽ ấn định số tiền phạt như thế nào, tùy mức độ của sự xâm phạm. Hơn nữa, chàng trai còn phải tổ chức một buổi « tạ tội » tại nhà cô gái. Có điều, nếu muốn, chàng có quyền xin cưới cô gái thì có thể tránh được khoản Peng-Huốn.Khi ông bà – nếu các cụ còn sống – và cha mẹ của đôi bên quyết định bàn chuyện kết hợp cho con cái họ thì hai anh chị đã yêu nhau hoặc tối thiểu cũng đã quen biết nhau rõ ràng. Trước nay hôn nhân Lào chưa bao giờ có cảnh lần đầu vợ biết mặt chồng là trong ngày cưới .


 

Tục cưới hỏi của người Lào ở Sơn La


Theo phong tục người Lào, cô dâu về nhà chồng phải mang theo 4-11 cái đệm, chăn, một bộ quần áo cho bố chồng, một váy cho mẹ chồng do chính tay mình dệt. Bởi vậy, những em bé người Lào ngay từ thơ bé đã được mẹ, bà dạy cho cách đặt sợi, kỹ thuật dệt và thêu. Cô gái nào làm được nhiều chăn, quần áo mang tặng nhà chồng sẽ được coi là người khéo léo, đảm đang, sẽ được gia đình nhà chồng quý mến.Giống như người Kinh, trước khi làm lễ cưới, người Lào cũng tiến hành lễ ăn hỏi. Nhà gái thường yêu cầu nhà trai mang lễ khoảng 400.000-500.000 đồng, cau trầu và rượu cần để sau này chia cho con cháu trong dòng họ. Khi hai bên gia đình đã đồng ý tác hợp cho đôi trai gái, họ sẽ chọn ngày đẹp để tiến hành lễ cưới dưới sự chứng kiến của dân bản. Trong đám cưới, anh em, họ hàng nhà gái thường đem vải hoặc tiền để tặng cho họ nhà trai.


Trong ngày cưới, họ hàng nhà trai đưa chú rể đến nhà gái để đón dâu về nhà. Khi chú rể sắp tới, nhà cô dâu sẽ khép cửa lại. Một người cao tuổi của nhà trai sẽ đứng trước cửa hỏi: “Chủ nhà có ở nhà không? Tôi đưa con cháu đến để dạy bảo đây!”.

Nhà gái ra mở cửa và nói “À, con tôi đã đến!” rồi túm tay chú rể, lấy sợi tơ hồng buộc vào tay cô dâu. Cô dâu để ngửa bàn tay để chú rể úp tay mình vào. Lúc này, người lớn tuổi của hai họ sẽ dặn dò đôi vợ chồng trẻ phải sống chung thuỷ, yêu thương và nhường nhịn nhau, đừng làm điều xấu. Khi đã làm xong các thủ tục như, cúng gia tiên, chào hỏi họ hàng, uống chung một chum rượu cần nhỏ..., sợi dây buộc tay cô dâu chú rể sẽ được cắt đi. Dân bản, anh em họ hàng của cả nhà trai và nhà gái cùng ăn cỗ, uống rượu mừng cho đám cưới. 2 vợ chồng trẻ và bố mẹ hai bên sẽ đến từng mâm đáp lễ với những người tới dự lễ cưới.

Theo tục lệ truyền thống, chú rể phải ở lại nhà cô gái một đêm. Hôm sau, cả cô dâu và chú rể về nhà trai.

Lúc này, nhà chú rể mới làm cỗ mời khách đến chia vui. Trong 3 ngày sau khi cưới, đôi vợ chồng trẻ chỉ ở nhà chưa phải đi làm gì, đến ngày thứ 4 mới bắt đầu lên nương rẫy.



 

Phong tục cưới hỏi của người Chăm
Phong tục cưới hỏi của người Hoa
Phong tục cưới hỏi của người Thái
Phong tục cưới hỏi của người Thái trắng Điện Biên
Phong tục cưới cổ truyền của người Việt
Phong tục tập quán ba miền Bắc Trung Nam trong cưới xin


(st)