Phương pháp thiền Osho


Mỗi truyền thống tôn giáo lớn đều có một vài phương pháp tu tập mà họ gọi là sự trầm tư hay thiền định. Có rất nhiều phương pháp tu thiền khác nhau,
ng đến sự thoải mái, tự do, an lạc cho tâm hồn. Sau đây chúng tôi giới thiệu đến các bạn phương pháp thiền Osho.




VÀI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG CỦA OSHO


Osho (1931-1990) là một vị đạo sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi.

Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Khoảng trong thập kỷ 70 người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Raineesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho. Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là "đạo sư" của một dòng Thiền. [1] Tác phẩm bạn đọc đang cầm trên tay, Tự Truyện Osho,  kể lại cuộc đời lạ lùng và quan niệm của ông về nhiều vấn đề, thế tục cũng như tâm linh.

Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hóa cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học.

Nhân cách của Osho có một sức thu hút mãnh liệt, nó biểu hiện trong những bài luận giải xuất chúng của ông về mọi vấn đề tôn giáo và triết học, kể cả về các bộ kinh lâu đời nhất mà nhiều vị luận sư đã dày công trình bày. Những ai đã gặp ông đều thừa nhận Osho có một tài hùng biện đầy ma lực, một sự hấp dẫn cá nhân mà người nghe hầu như không thể cưỡng lại.

Sự thật về con người Osho nằm ở đâu ? Chính ông cũng nói về triết học của mình là một thứ triết học phi triết học (philosophy of no philosophy). Tuy thế, một khi độc giả đã cầm quyển sách này trong tay, một lời dẫn nhập ngắn nhằm giới thiệu con người và quan niệm của Osho có lẽ sẽ giúp độc giả hiểu được một phần con người kỳ dị này của thế kỷ trước. Đó là mục đích của bài này.


[1] Về sau, Osho còn liên hệ danh xưng này với từ oceani của William James. Ocani có nghĩa là đại dương. Như vậy, Osho còn có nghĩa là đại dương. (BT)
 
Trước hết, trong những năm 60, Osho là giáo sư triết học tại đại học Jabalpur, Ấn Độ. Về bản thể luận, ông là người có một quan niệm Nhất Thể  (Monism) về vũ trụ. Đối với ông, Thượng đế nằm trong mọi vật, nằm trong mọi con người. Không hề có sự phân biệt nào giữa "Thượng đế" và "phi Thượng đế". Toàn thể mọi con người, dù là người tồi tệ nhất, đều thiêng liêng cả. Mọi dạng xuất hiện của một thứ năng lượng mang tên là "Thượng đế" đối với ông đều đáng ngưỡng mộ và điều này sẽ thể hiện trong quan niệm hành trì mà ông muốn truyền bá.

Đối với đời người, Osho cho rằng giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment). Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là nằm yên trong "trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ". Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội. Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế. Ông quan niệm rằng, muốn trở lại trạng thái hồn nhiên và an lạc, con người phải tự mình giải thoát khỏi sợ hãi và ức chế.

Với nhận thức này Osho hoàn toàn nằm trọn vẹn trong truyền thống của triết học Ấn Độ, nhất là trong Đại thừa Phật giáo. Nếu nhớ đến tư tưởng của Mã Minh trong Đại thừa khởi tín luận, hay Thiền ngữ "Tâm bình thường là đạo" của Nam Tuyền, hay các phép hành trì của Phật giáo Tây Tạng, hay tư tưởng của các vị đạo sư của thời hiện đại như Aurobindo hoặc Krishnamurti, vân vân, ta dễ dàng thấy sự trùng hợp tuyệt đối về nhận thức luận giữa ông và các truyền thống đó. Chỉ có điều khác biệt là, Osho nói về các nhận thức này một cách hùng biện và mới mẻ, và nhất là với tính cách của một giáo sư triết học, trong các luận giải, ông phối hợp một cách tài tình những truyền thống của Phật giáo, Jaina giáo, Hindu giáo, Ky tô giáo,  Sufism (một truyền thống của Hồi giáo), và triết học cổ của Hy Lạp. Thế nhưng, cũng như mọi nhà đạo học khác, ông không quên chỉ rõ, không một nền triết học nào có thể diễn bày được chân lý, có thể thay thế được sự chứng thực cá nhân.

Do đó sự trải nghiệm, sự chứng thực của trạng thái giác ngộ là cốt tủy của mọi sự. Ông tự nhận mình đã đạt trạng thái này năm 21 tuổi. Phương pháp khả dĩ đưa đến giác ngộ là phép thiền định. Nhưng thiền định là gì và hành trì thiền định như thế nào? Theo Osho thiền định là một trạng thái nằm ngoài tâm. Thiền định không phải là sự tập trung. Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý về thiền định có thể ví như to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân sự lặng yên. Đó là một tình trạng có thể xảy ra bất chợt, một tình trạng mà ta có thể ở trong đó, chứ không phải là một sản phẩm do ta tạo ra. Quan niệm này về thiền của Osho không hề khác với các phát biểu xưa nay của các vị Thiền sư của miền Đông Á, trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhưng cách hành trì thiền định do Osho đề ra thì khác hẳn.

Osho cho rằng con người hiện đại, nhất là người phương Tây rất khó áp dụng phép tọa thiền, tìm sự an tĩnh và ngưng bặt tư tưởng bằng cách ngồi yên. Vì thế ông đề xuất những phép thiền tích cực (Active Meditation) và cho rằng những phép hành trì của thiền tích cực sẽ đưa con người vào trạng thái thiền định một cách tự nhiên. Nội dung của các phép thiền tích cực này là cho phép con người rủ bỏ những gì ức chế mình bằng cách để cho chúng được thể hiện một cách tự nhiên. Trong các phép thiền tích cực do Osho đề ra ta có thể kể phép thiền năng động (Dynamic Meditation), thiền Kundalini, Nadabrahma, Natajai, trong đó phép thiền năng động được chú ý nhiều nhất. Trong phép thiền năng động, thường thường thiền sinh bắt đầu với những hoạt động mạnh mẽ về thể chất, sau đó là sự lặng yên và lễ hội“ (celebration).  Phép thiền này tin rằng, qua đó con người sẽ vượt thắng sự sợ hãi, giảm bỏ sự ức chế, phát sinh được một dạng của không tính  (state of emptiness) và đạt giác ngộ. Đối với Osho, muốn đối trị sự ức chế nào ta phải kích động nó lên, nếm trải, chứng nghiệm nó và cuối cùng trực nhận nó chỉ là "không" thì mới thực sự siêu việt được nó. Theo ông một con người giác ngộ sẽ là "phi quá khứ, phi tương lai, không ràng buộc, không tâm thức, vô ngã, vô bản chất".

Đó là những nét cơ bản về quan niệm của Osho về phép hành thiền. Thật ra thì phương pháp chủ động kích thích dục vọng của con người lên để chứng nghiệm, quán chiếu và siêu việt chúng không phải là một điều gì mới lạ. Trong truyền thống Ấn Độ, người ta vẫn còn nhắc đến 84 vị Đại Thành tựu giả (Mahasiddha), các vị được xem là sống trong khoảng thế kỷ thứ 8 đến thứ 12 sau công nguyên [2]. Đó là các vị hành giả lòng còn chất chứa đầy các loại dục vọng khác nhau, nhưng nhờ biết cách quán chiếu chúng chẳng qua đều là những dạng của Không tính mà đạt được thành tựu. Đọc tiểu sử các vị đó, ta sẽ thấy đó toàn là những người mang đầy thói hư tật xấu, thậm chí có kẻ là người chuyên đánh bạc hay ăn trộm, nhất là có rất nhiều vị đam mê tình dục. Thế nhưng, nhờ một cách hành trì thiền định, trong đó họ quán tưởng "đối tượng đam mê" và "người đam mê" đều chỉ là những dạng của "Không", họ đạt giác ngộ ngay trong đời này. Các vị đó là những người tiên phong của một truyền thống được mệnh danh là Kim cương thừa. Trong thời đại gần đây hơn, các vị tu sĩ trong truyền thống Kim cương thừa của Tây Tạng cũng là những người chủ trương "chuyển hóa" năng lực của dục vọng thành động lực của sự giác ngộ. Thậm chí trong nền phân tâm học hiện đại của phương Tây người ta cũng biết đến phép chữa bệnh Gestal Therapy, trong đó bệnh nhân được khuyến khích hãy sống thực với nền tảng tâm lý của mình, hãy tận lực khóc cười hay la hét với những ức chế của mình với mục đích giải thoát ra khỏi sự đè nén của chúng.

Dĩ nhiên phương pháp của Osho có một tầm cỡ hoàn toàn khác so với phép chữa bệnh tâm lý nói trên vì ở đây nó có tính chất tôn giáo cao độ. Còn so với các truyền thống xưa thì điều kỳ lạ là ông dám đem ra áp dụng cho quảng đại quần chúng. Ở đây ta dễ dàng đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Đó là khi con người bình thường được khuyến khích chủ động cho những ức chế của mình được vận hành thì một năng lực thuộc về bản năng sẽ vùng dậy, đó là tình dục.

Osho vốn là một con người "nổi loạn", luôn luôn chống lại qui tắc của xã hội. Không những ông không hề sợ bị xã hội lên án, xưa nay ông chuyên khiêu khích sự ổn định của một định chế có sẵn, kể cả một nền đạo lý chung của con người. Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60 ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề Từ tình dục đến ý thức siêu việt [3] (From Sex to Superconsciouness), trong đó ông cho rằng "đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng" và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự hủy vì người ta không thể chuyển hóa tình dục nếu không nếm trải nó "một cách đích thực và đầy ý thức". Quả thực, trong phong trào của ông, môn đệ của ông thực hành lời dạy này một cách đầy hoan lạc. Liệu hành động của họ là "đích thực và đầy ý thức" như ông giảng giải, là một vấn đề khác. Thật ra phần nói về tình dục chỉ là phần nhỏ trong cuộc đời thuyết giảng của ông nhưng kể từ đó người ta gọi chủ trương của ông là “tự do tình dục” và gọi ông là “ đạo sư sex”  (sex-guru)  - nhưng đó chỉ là sự vu khống buồn cười và đầy ác ý, vì những ai chịu khó theo dõi tư tưởng ông, đều biết rằng ông không  phàm tục  như họ nghĩ  !

Trên quan niệm đạo học phương Đông, tình dục là một dạng vận hành của năng lượng. Năng lượng hàm chứa trong con người biểu hiện dưới nhiều dạng của ái dục mà dạng ái dục quan trọng nhất là hữu ái (bhavatrsna), tức là sự khao khát được tồn tại. Trong sự khao khát đó thì tình dục là dạng ái dục cụ thể nhất, mang nặng tính vật chất nhất. Tình dục do đó là bản năng cơ bản nhất của mọi loài, nó không dính líu gì đến các giá trị do xã hội loài người đặt ra như thiện-ác, xấu-tốt, phải-trái. Sở dĩ tình dục hay bị lên án là vì mọi hoạt động xuất phát từ nó thường sinh ra những hậu quả phiền toái cho đời sống xã hội của con người. Cũng chính vì thế mà con người thường bị ức chế về tình dục, tuy luôn luôn nhớ nghĩ về nó nhưng cũng luôn luôn phải đè nén nó. Do đó tình dục là một trong những ức chế lớn nhất của con người, thật ra là ức chế chủ yếu của đời làm người. Nền tâm lý học phương Tây cũng đã có những phát hiện tương tự.

Vì vậy khi Osho chủ trương con đường giải thoát là phải đối diện, nếm trải mọi năng lực bị ức chế để có thể siêu việt và chuyển hóa chúng, thật ra ông không thể không nói đến tình dục, nếu ông thật sự nhất quán với chính mình. Và thực ra mỗi kẻ tầm đạo, một khi đã đi vào con đường tích cực và chuyển hóa, cũng phải tìm cho mình một phương thức riêng để chuyển hóa năng lực của tình dục, một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn "chuyển hóa" thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể tỏa hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim cương thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.

Osho chỉ là người muốn thực hiện rộng rãi Kim cương thừa trong thế kỷ 20 tại phương Tây. Tuy là người vô cùng thông minh, nhưng có lẽ ở đây ông đã phạm một sai lầm. Đó là Kim cương thừa chỉ dành cho những bậc thượng căn, không phải cho quần chúng.

Nếu xét Kim cương thừa và những vị tu sĩ cao cấp đã tu luyện theo phép này, người ta phát hiện lại một câu nói giản đơn của một người hẳn đã biết mức độ chọn lọc đối với người hành giả có thể theo học phép tu này. "Chỉ những ai đã xả bỏ tâm phân biệt, những ai mà đối với họ một đĩa thực phẩm sang trọng và một đĩa phân là như nhau, thì kẻ đó mới được theo học Kim cương thừa". Đó là lời của Đạt-lai lạt-ma thứ V (1617-1682).

Tiếc thay, nhiều môn đệ của ông tìm đến vì tò mò, không ít người phản bội ông.  Trong quá khứ người ta cũng chỉ biết vỏn vẹn có 84 vị Thành tựu giả trong số hàng triệu người tu học tại Ấn Độ thì tại sao ngày nay lại có thể khác. Hơn thế nữa, con người của thời đại này lại càng vô cùng khó khăn hơn nữa khi muốn chuyển hóa một năng lực gắn liền với thân vật chất để thăng hoa, tiến gần với cái thiêng liêng. Thời đại này là kỷ nguyên của chủ nghĩa duy vật, những người tưởng như muốn tìm đến cái thiêng liêng thực chất cũng là môn đệ của chủ nghĩa duy vật tâm linh   (spiritual materialism) như Chogyam Trungpa đã nói. Thời nào cũng thế, con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy, chỉ tìm những gì họ khao khát.

Trước khi ra đi, Osho đã có nhiều hoài bảo lớn. Chúng có trở thành hiện thực hay không, chỉ thời gian mới có thể trả lời.

Sinh thời, ông đã bị chỉ trích nhiều, nhưng công bằng mà nói, đó là điều dễ hiểu, bởi vì ông luôn “gây hấn", chống lại mọi định chế – là cái không bao giờ chấp nhận một sự tấn công nào.

Trong chiều kích tâm linh, hẳn là ông đã đạt tới những đỉnh cao, và chắc không mấy ai nghi ngờ điều đó. Trong lãnh vực hình tướng, ông chủ trương nhập thế, và đã có nhiều kế hoạch cụ thể để làm đẹp cuộc đời. Về phương pháp hành thiền, ông cũng đã có nhiều phát minh đáng chú ý. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, việc ông muốn áp dụng Kim cương thừa - cụ thể, việc “chuyển hóa năng lượng sex thành năng lượng tâm linh” - rộng rãi cho quần chúng, có thể nói là một sai lầm đáng tiếc. Bởi vì, lịch sử cho thấy, Kim cương thừa tuyệt đối dành cho những bậc “thượng căn.“

Với sự thận trọng và cảnh giác cần thiết, thì việc đọc tác phẩm của ông có thể là một nguồn cảm hứng vô tận, bởi ông có một tâm hồn không ngừng sáng tạo, và trái tim của một nhà nghệ sĩ. Nhưng, đã mang thân xác con người, thì dù thế nào đi nữa, không thể nói rằng ông không có những sai lầm – nhất là ở chiều kích của thế giới “hình tướng“

Có nhiều người than phiền rằng, sau khi ông ra đi, các “đệ tử” của ông đã làm nhiều điều sai trái, phản bội lại giáo huấn của ông. Thật có như vậy. Nhưng biết làm sao được? Những cuộc thánh chiến thời Trung cổ đâu phải là ý muốn của chúa Jesus, và Quốc xã của Hitler đâu phải là mong đợi của Nietzsche! Sự phản bội này, Osho biết rõ hơn ai hết. Có lần ông nói, “ Khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản những gì mà hậu thế sẽ làm. Nó nằm ngoài vòng kiểm soát của bạn.”

Dĩ nhiên, ta có quyền “phán đoán“ ông về những cái mà ông còn khiếm khuyết. Nhưng, phải thừa nhận rằng, những lời nói đầy minh triết của ông chắc chắn sẽ vẫn mãi còn giá trị, vẫn mãi là nguồn cảm hứng, chừng nào trên mặt đất này vẫn còn có chủng loại người. .


Thiền hoa hồng huyền bí Osho

Biểu tượng hoa hồng huyền bí là ở chỗ nếu con người chăm sóc hạt mầm mà người đó được sinh ra cùng nó, đem lại đất trồng thích hợp cho nó, cho nó bầu không khí thích hợp và rung động thích hợp, đi trên đường phải, nơi hạt mầm có thể bắt đầu trưởng thành, thì sự trưởng thành tối thượng sẽ được tượng trưng bằng hoa hồng huyền bí - khi con người bạn nở hoa và mở tất cả những cánh hoa ra để cho hương thơm lan toả.

Với những người muốn đi sâu hơn, tôi đã chọn việc tạo ra cách trị liệu thiền. Phần thứ nhất bao gồm việc cười - trong ba giờ, người ta chỉ cười không vì lí do gì cả. Và bất kì khi nào cái cười của họ bắt đầu tắt đi thì họ lại nói “Ya-Hoo!” và cười sẽ trở lại. Đào sâu trong ba giờ bạn sẽ ngạc nhiên là biết bao tầng bụi bặm đã tích tụ lên con người bạn. Nó sẽ cắt qua chúng tựa như lưỡi gươm trong một cú đánh. Trong bẩy ngày liên tục, ba giờ mỗi ngày... bạn không thể quan niệm được biết bao biến đổi có thể xảy ra cho con người bạn.

Và rồi phần thứ hai là việc khóc. Phần thứ nhất loại bỏ mọi thứ cản trở cái cười của bạn - tất cả những cấm đoán của loài người quá khứ, tất cả những kìm nén, nó cắt bỏ chúng đi. Nó đem lại không gian mới bên trong bạn. Nhưng bạn vẫn còn phải đi thêm vài bước nữa để đạt tới ngôi đền con người bạn, bởi vì bạn đã kìm nén quá nhiều nỗi buồn, quá nhiều thất vọng, quá nhiều lo âu, quá nhiều nước mắt - tất cả chúng vẫn còn đó, che phủ bạn và phá huỷ cái đẹp của bạn, cái duyên dáng của bạn, niềm vui của bạn.

Ngày xưa ở Mông cổ người ta có ý tưởng cổ đại là mọi kiếp sống, bất kì nỗi đau nào cũng bị ngăn chặn... và nỗi đau quả bị ngăn chặn, bởi vì chẳng ai muốn nó. Bạn không muốn đau khổ, cho nên bạn ngăn chặn nó, bạn tránh nó, bạn ngoảnh mặt đi chỗ khác. Nhưng nó thì cứ còn đấy.

Và ý tưởng của người Mông cổ - và tôi cũng đồng ý với điều đó - là hết kiếp nọ đến kiếp kia nó cứ tích luỹ trong bạn; nó trở thành gần như cái vỏ đau đớn cứng rắn. Nếu bạn đi vào trong bạn sẽ thấy cả hai, cười và khóc. Đó là lí do tại sao đôi khi xảy ra là bằng việc cười, đột nhiên bạn thấy nước mắt cũng trào ra - rất lẫn lộn, vì thông thường ta nghĩ chúng là mâu thuẫn nhau. Khi bạn tràn đầy nước mắt thì đấy không phải là lúc cười, hay khi bạn đang cười thì chẳng có lí do đúng cho khóc. Nhưng sự tồn tại không tin vào các khái niệm, các tư tưởng của bạn: sự tồn tại siêu việt trên mọi quan niệm của bạn, cái vốn nhị nguyên, cái dựa trên nhị nguyên. Ngày và đêm, cười và khóc, đau khổ và phúc lạc, chúng cứ tới cùng nhau.
Khi một người đạt tới con người bên trong nhất của mình thì người đó sẽ thấy tầng đầu tiên là cười và tầng thứ hai là đau đớn, khóc lóc.

Cho nên trong bảy ngày, bạn phải cho phép bản thân mình được khóc lóc, kêu gào, chẳng vì lí do gì hết cả - chỉ để cho nước mắt sẵn sàng trào ra. Bạn vẫn đang ngăn cản chúng; chỉ đừng có ngăn cản nữa thôi. Và bất kì khi nào bạn cảm thấy chúng không tới thì hãy nói “Ya-Boo!” Đấy là những âm thanh thuần khiết, được dùng như một kĩ thuật để đem lại tất cả cái cười và tất cả cái khóc của bạn và lau sạch bạn hoàn toàn, cho nên bạn có thể trở thành đứa trẻ hồn nhiên.

Cuối cùng, phần thứ ba là chứng kiến - người quan sát trên đồi. Cuối cùng, sau cười và khóc, chỉ còn lại sự im lặng chứng kiến. Chứng kiến theo cách riêng của nó là việc chặn lại tự động. Việc khóc dừng lại khi bạn chứng kiến nó, nó trở thành tiềm tàng. Việc thiền này loại bỏ khóc và cười trước đó, cho nên chẳng còn gì để mà chặn lại nữa trong việc chứng kiến của bạn. Thế thì việc chứng kiến đơn thuần mở ra bầu trời thuần khiết. Cho nên trong bảy ngày bạn kinh nghiệm đơn thuần sự sáng tỏ.

Đây hoàn toàn là cách thiền của tôi.

Bạn sẽ ngạc nhiên rằng không cách thiền nào có thể mang đến cho bạn nhiều như chiến lược nhỏ này. Đây là kinh nghiệm của tôi với nhiều cách thiền, rằng điều cần phải làm là phải phá vỡ hai tầng bên trong bạn. Cái cười của bạn đã bị kìm nén; bạn đã được bảo, “Đừng cười, đây là vấn đề nghiêm trang.” Bạn không được phép cười trong nhà thờ, hay trong lớp đại học...

Cho nên tầng thứ nhất là cười, nhưng một khi cười đã qua đi thì bạn bỗng nhiên sẽ thấy bản thân mình tràn ngập với nước mắt, đau khổ. Nhưng cả cái đó nữa cũng sẽ là hiện tượng nặng gánh lớn lao. Nhiều kiếp sống đau đớn và khổ cực sẽ biến mất. Nếu bạn có thể vứt bỏ hai tầng này thì bạn có thể tìm thấy chính mình.

Chẳng có ý nghĩa nào trong các từ ‘Ya-hou’ và ‘Ya-bou’ cả. Đấy chỉ là công cụ, âm thanh có thể dùng cho mục đích nào đó để đi vào trong con người bạn.

Tôi đã phát minh ra nhiều cách thiền, nhưng có lẽ đây là cách nền tảng và bản chất nhất. Nó có thể dẫn đưa cả thế giới...

Mọi xã hội đều đã làm quá nhiều điều tệ hại bằng cách ngăn cản niềm vui của bạn cũng như nước mắt của bạn. Nếu người già bắt đầu khóc bạn sẽ nói, “Bác làm gì vậy? Bác phải cảm thấy xấu hổ chứ; bác không còn là đứa trẻ con nữa, rồi ai đó lại coi thường bác vì bác đang khóc. Bác làm cái gì bình thường khác, nhưng đừng có kêu khóc nữa.” Đấy bạn xem - cứ đứng trong phố mà khóc xem, đám đông sẽ tụ lại để an ủi bạn: “Thôi đừng khóc nữa! Dù cái gì có xảy ra thì cứ quên hết cả đi, nó đã xảy ra rồi.” Chẳng ai biết điều gì đã xảy ra, chẳng ai có thể giúp được bạn, nhưng mọi người đều cố gắng - “Đừng khóc nữa!” Và lí do là ở chỗ nếu bạn cứ khóc thế thì họ cũng bắt đầu khóc, bởi vì họ cũng tràn đầy nước mắt. Nhưng giọt nước mắt đó là rất gần với mắt họ.

Và việc khóc, kêu gào, cười nói lại là lành mạnh. Bây giờ các nhà khoa học đang phát hiện ra rằng kêu gào, khóc lóc, cười nói là lành mạnh ghê lắm, không chỉ về thể chất mà còn cả về tâm lí nữa. Chúng có rất nhiều khả năng giữ cho bạn lành mạnh. Toàn bộ loài người đã đi tới chút gàn dở bởi lí do đơn giản là chẳng ai cười hoàn toàn cả, vì tất cả mọi người xung quanh sẽ nói, “Anh làm gì thế? Anh có là trẻ con nữa không đấy? - tuổi này mà lại cười thế à? Con anh sẽ nghĩ gì? Im đi thôi!”

Nếu bạn kêu khóc mà không có lí do nào, chỉ như bài tập, việc thiền... thì chẳng ai tin vào điều đó. Nước mắt chưa bao giờ được chấp nhận là thiền cả. Và tôi bảo bạn này, chúng không chỉ là thiền, chúng còn là thuốc nữa đấy. Bạn sẽ có cái nhìn tốt hơn và bạn sẽ có linh ảnh bên trong tốt hơn. Tôi đang trao cho bạn kĩ thuật rất nền tảng, tươi tắn và còn chưa bao giờ được dùng tới, và đang trở thành phổ biến khắp thế giới, không hoài nghi gì nữa, vì hiệu quả của nó sẽ biểu lộ cho bất kì ai rằng người đó sẽ trở nên trẻ hơn, người đó sẽ trở nên đáng yêu hơn, người đó sẽ trở nên duyên dáng hơn. Người đã trở nên linh hoạt hơn thì cũng ít cuồng tín hơn; người đã trở nên vui sướng hơn, thì cũng tưng bừng hơn.

Tất cả điều mà thế giới này cần là lau sạch khỏi trái tim mọi sự ức chế của quá khứ. Và cười cùng khóc có thể làm được cả hai. Khóc sẽ lôi ra tất cả mọi đau khổ vẫn ẩn kín bên trong bạn còn cười sẽ lôi ra tất cả những cái vẫn ngăn cản niềm cực lạc của bạn. Một khi bạn đã học được nghệ thuật này thì bạn sẽ ngạc nhiên lắm: sao mãi đến giờ mới bảo cho tôi điều này? Có lí do đấy: chẳng ai muốn loài người có sự tươi tắn của hoa hồng cùng hương thơm và cái đẹp.

Tôi đã gọi loạt bài giảng này là Hoa hồng Huyền bí. “Ya-Hoo!” là câu mật chú để đem hoa hồng huyền bí vào chính trung tâm bạn, để mở trung tâm bạn ra và lan toả hương thơm của bạn, và Hoa hồng Huyền bí là sự hoàn thành của con người bên trong của bạn.

Hướng dẫn

Cách thiền này có ba phần, kéo dài trong 21 ngày, cũng có thể được thực hiện một mình.

1. Hướng dẫn cười

Cái cười đích thực thì chẳng về cái gì cả. Nó đơn thuần nảy sinh trong bạn như hoa nở trên cây. Nó chẳng có lí do nào, không lời giải thích hợp lí. Nó là bí ẩn; do đó là biểu tượng cho hoa hồng huyền bí.

Trong bẩy ngày, bạn hãy bắt đầu bằng việc kêu lên “Ya-hou!” (nói là “Ya-hu”)một số lần nào đó, rồi cứ thế mà cười chẳng vì gì cả trong 45 phút nếu bạn thực hành có một mình hay trong liền 3 giờ nếu bạn có một nhóm. Bạn có thể ngồi hay nằm xuống. Một số người thấy nằm ngửa giúp cho cơ dạ dầy và cho phép năng lượng chuyển vận dễ dàng hơn. Một số người thấy rằng đắp tấm chăn mỏng lên người hay phủ lên chân giúp đem lại việc cười, cái rúc rích trẻ thơ trong họ. Việc nhấn mạnh là tìm ra cái cười bên trong của bạn, cái cười không vì nguyên cớ gì cả, cho nên mắt bạn nói chung vẫn nhắm. Tuy nhiên ánh mắt chạm vào bạn bè của bạn làm nảy ra tiếng cười thì cũng tốt.

Cứ để cho thân thể bạn lăn lộn theo cách vui sướng và đùa nghịch, với sự hồn nhiên của trẻ thơ trong bạn, và hãy cho phép bản thân bạn được cười một cách toàn bộ.

Vào mọi lúc, bạn có thể đi tới gặp khối cản, cái đã có đó trong nhiều thế kỉ, ngăn cản cái cười của bạn. Khi điều này xảy ra, hãy kêu lên Ya-Hoo! hay nói lúng búng (những âm vô nghĩa) cho đến khi cái cười nảy sinh trở lại.

Buông bỏ: Vào cuối giai đoạn cười, bạn hãy ngồi hoàn toàn bất động trong vài phút, mắt nhắm. Trong thân thể đông cứng như bức tượng, tụ hội tất cả năng lượng vào bên trong. Rồi buông bỏ: thảnh thơi thân thể bạn hoàn toàn và cho phép nó đổ xuống không cố gắng và không kiểm soát gì. Khi bạn cảm thấy sẵn sàng thì hãy ngồi dậy và ngồi in lặng, quan sát trong 15 phút.

2. Hướng dẫn khóc

Khi cái cười đã qua đi thì bạn sẽ thấy mình tràn ngập với khóc lóc, đau đớn. Nhưng điều đó nữa cũng sẽ là hiện tượng nhẹ gánh lớn lao. Nhiều kiếp sống trong đau đớn và đau khổ sẽ tan biến. Nếu bạn có thể gạt bỏ hai tầng này thì bạn đã tìm ra bản thân mình.

Với tuần thứ hai, bạn hãy bắt đầu bằng việc nói “Ya-Bou” (nói là “Ya-bu”) nhẹ nhàng một số lần, rồi chỉ cho phép chính mình được kêu khóc trong 45 phút. Bạn có thể cần có một căn phòng hơi tối để giúp cho bạn đi vào trong nỗi buồn của mình. Bạn có thể ngồi hay nằm. Bạn hãy nhắm mắt và đi sâu vào trong tất cả những tình cảm làm cho bạn kêu khóc.

Bạn hãy cho phép mình được kêu khóc thực sự sâu sắc, lau sạch và giải toả gánh nặng trong tim. Bạn hãy cảm thấy cái đê ngăn cản mọi nỗi đau bị dồn nén của mình bị vỡ tung - hãy để cho nước mắt trào ra. Nếu bạn cảm thấy nghèn nghẹn hay cảm thấy buồn ngủ sau khi kêu khóc một chốc thì hãy nói lúng búng. Bạn hãy đung đưa mình một chút ra trước ra sau hay nói Ya-bou vài lần. Nước mắt có đó, chỉ đừng ngăn cản chúng.

Buông bỏ: Đến cuối của giai đoạn kêu khóc mỗi ngày, bạn hãy ngồi hoàn toàn bất động trong vài phút và rồi đi vào trong buông bỏ, tương tự như bạn đã làm sau khi cười.

Trong suốt cả tuần khóc này, bạn hãy cởi mở mọi tình huống có thể đem lại nước mắt. Hãy cho phép bản thân bạn thành mong manh.

Hướng dẫn về Người quan sát trên núi

Trong tuần thứ ba, bạn hãy ngồi im lặng trong bất kì thời kì nào mà mình cảm thấy thoải mái, và rồi nhảy múa theo điệu nhạc trái tim, nhẹ nhàng.
Bạn có thể ngồi bệt trên sàn hay trên ghế, đầu và lưng nên thật thẳng, mắt nhắm, thở tự nhiên.

Hãy thảnh thơi, luôn nhận biết, trở thành như người quan sát trên núi, chỉ chứng kiến bất kì cái gì diễn ra. Đó là tiến trình quan sát mà chính là thiền; điều bạn quan sát thì không quan trọng. Hãy nhớ chớ trở nên đồng nhất với hay bị biến mất vào bất kì cái gì xảy tới: ý nghĩ, tình cảm, cảm giác thân thể, phán xét.

Sau khi ngồi, hãy chơi bản nhạc nhẹ theo chọn lựa của bạn và nhảy múa. Hãy cho phép thân thể tìm ra chuyển động của nó, và tiếp tục quan sát khi bạn đang di động: chớ có bị mất đi trong âm nhạc.

Vài điểm có ích

• Trong toàn bộ thời kì hai mươi mốt ngày này, tốt nhất là nên tránh các phương pháp hay phiên thanh tâm khác (như Thiền Động hay Kundalini, hay các phiên như thở, giải toả xúc động hay năng lượng sinh học).
• Nếu bạn áp dụng Thiền Hoa hồng Huyền bí cùng với người khác thì đừng nói chuyện lẫn nhau trong buổi tập.
• Nhiều người đi tới tầng giận dữ trong tuần cười hay trong tuần khóc. Không cần phải bị vướng mắc tại đó. Hãy để cho nó được bày tỏ bằng cách nói lúng túng và qua những chuyển động thân thể, rồi trở lại với việc cười hay khóc.
• Bạn hãy tôn vinh cái cười của mình, tôn vinh nỗi buồn của mình, tôn vinh khoảnh khắc quan sát im lặng của mình!


THIỀN HIỆN ĐẠI CỦA OSHO VÀ GIẢI PHÓNG NĂNG LƯỢNG DỤC


Xưa nay, sống trong một xã hội bị kìm nén bởi các giáo lý, người dân Việt Nam thường có cái nhìn cổ hủ về khái niệm dục. Nhưng khi được “cởi trói” bởi sự ảnh hưởng của phương Tây, họ lại dễ dàng bị cuốn theo phong trào giải phóng tình dục thậm chí thái quá tới mức bệnh hoạn. Tập Thiền theo phương pháp hiện đại ngày nay phần nào giúp chúng ta đạt trạng thái cân bằng trong việc sử dụng “năng lượng dục”.
Người đầu tiên đề xuất phương pháp Thiền này với thế giới hiện đại phải kể đến đạo sư Osho (1931-1990). Ông có lẽ là vị minh sư kỳ lạ nhất mà thế giới phàm tục chúng ta được biết đến. Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Khoảng trong thập kỷ 1970, người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Rajneesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho. Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là “đạo sư” của một dòng Thiền. Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương Đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hoá cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học. Nhưng có lẽ điều này nằm trong ý đồ đích thực của một con người “nổi loạn” như ông. Ông thường nói về triết học của mình như một thứ “phi triết học”. Trước hết, trong những năm 60, Osho là giáo sư triết học tại đại học Jabalpur, Ấn Độ.
Về bản thể luận, ông là người có một quan niệm Nhất thể (Monism) về vũ trụ. Đối với ông, Thượng đế nằm trong mọi vật, nằm trong mọi con người. Không hề có sự phân biệt nào giữa “Thượng đế” và “phi Thượng đế”. Toàn thể mọi con người, dù là người tồi tệ nhất, đều thiêng liêng cả. Mọi dạng xuất hiện của một thứ năng lượng mang tên “Thượng đế” đối với ông đều đáng ngưỡng mộ và điều này sẽ thể hiện trong quan niệm hành trì mà ông muốn truyền bá.
Đối với đời người, Osho cho rằng giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment). Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là “nằm yên trong trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ”. Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội. Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế. Ông quan niệm rằng, muốn trở lại trạng thái hồn nhiên và an lạc, con người phải tự mình giải thoát khỏi sợ hãi và ức chế.
Nhưng khác với các Thiền luận khác, ông không khuyên con người tuân thủ những “giới luật” để giải thoát dục vọng mà ngược lại hãy “giải phóng năng lượng dục”. Theo Osho, thiền định là một trạng thái “nằm ngoài tâm”. Thiền định không phải là sự tập trung. Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý về thiền định có thể ví như to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân sự lặng yên. Đó là một tình trạng có thể xảy ra bất chợt, một tình trạng mà ta có thể ở trong đó, chứ không phải là một sản phẩm do ta tạo ra. Osho cho rằng con người hiện đại, nhất là người phương Tây, rất khó áp dụng phép toạ thiền, tìm sự an tĩnh và ngưng bặt tư tưởng bằng cách ngồi yên. Vì thế ông đề xuất những phép thiền tích cực (Active Meditation) và cho rằng những phép hành trì của thiền tích cực sẽ đưa con người vào trạng thái thiền định một cách tự nhiên. Nội dung của các phép thiền tích cực này là cho phép con người rũ bỏ những gì ức chế mình bằng cách để cho chúng được thể hiện một cách tự nhiên. Trong các phép thiền tích cực do Osho đề ra, ta có thể kể phép thiền năng động (Dynamic Meditation), thiền Kundalini, Nadabrahma, Natajai, trong đó phép thiền năng động được chú ý nhiều nhất. Trong phép thiền năng động, thường thường thiền sinh bắt đầu với những hoạt động mạnh mẽ về thể chất, sau đó là sự lặng yên và cử hành tế lễ. Phép thiền này tin rằng, qua đó con người sẽ vượt thắng sự sợ hãi, giảm bỏ sự ức chế, phát sinh được một dạng của Không tính (state of emptiness) và đạt giác ngộ.
Đối với Osho, muốn đối trị sự ức chế nào ta phải kích động nó lên, nếm trải, chứng nghiệm nó và cuối cùng trực nhận nó chỉ là “không” thì mới thực sự siêu việt được nó. Theo ông, một con người giác ngộ sẽ là “phi quá khứ, phi tương lai, không ràng buộc, không tâm thức, vô ngã, vô bản chất”. Nói một cách dễ hiểu và ngắn gọn, phương pháp hành Thiền hiện đại của Osho chính là chủ động kích thích dục vọng của con người lên để chứng nghiệm, quán chiếu và siêu việt chúng. Các vị tu sĩ trong truyền thống Kim cương thừa của Tây Tạng cũng là những người chủ trương “chuyển hoá” năng lực của dục vọng thành động lực của sự giác ngộ. Thậm chí trong nền phân tâm học hiện đại của phương Tây người ta cũng biết đến phép chữa bệnh Gestalt Therapy, trong đó bệnh nhân được khuyến khích hãy sống thực với nền tảng tâm lý của mình, hãy tận lực khóc cười hay la hét với những ức chế của mình với mục đích giải thoát ra khỏi sự đè nén của chúng. Nhưng Osho thực hiện một hành động mạnh mẽ hơn đó là phổ biến rộng rãi phương pháp này trong cộng đồng con người và gây ra một “tác dụng phụ” có thể đoán biết. Đó là khi con người bình thường được khuyến khích chủ động cho những ức chế của mình được vận hành thì một năng lực thuộc về bản năng sẽ vùng dậy, đó là tình dục.
Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60, ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề Từ tình dục đến ý thức siêu việt (From Sex to Superconsciouness), trong đó ông cho rằng “đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng” và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự huỷ vì người ta không thể chuyển hoá tình dục nếu không nếm trải nó “một cách đích thực và đầy ý thức”. Quả thực, trong phong trào của ông, môn đệ của ông thực hành lời dạy này một cách đầy hoan lạc. Liệu hành động của họ là “đích thực và đầy ý thức” như ông giảng giải, là một vấn đề khác. Thật ra phần nói về tình dục chỉ là phần nhỏ trong cuộc đời thuyết giảng của ông nhưng kể từ đó người ta gọi ông là “đạo sư tình dục” (sex-guru) và gọi chủ trương của ông là “tự do tình dục”.
Trên quan niệm đạo học phương Đông, tình dục là một dạng vận hành của năng lượng. Năng lượng hàm chứa trong con người biểu hiện dưới nhiều dạng của ái dục mà dạng ái dục quan trọng nhất là hữu ái (bhavatrsna), tức là sự khao khát được tồn tại. Trong sự khao khát đó thì tình dục là dạng ái dục cụ thể nhất, mang nặng tính vật chất nhất. Tình dục do đó là bản năng cơ bản nhất của mọi loài, nó không dính líu gì đến các giá trị do xã hội loài người đặt ra như thiện-ác, xấu-tốt, phải-trái. Sở dĩ tình dục hay bị lên án là vì mọi hoạt động xuất phát từ nó thường sinh ra những hậu quả phiền toái cho đời sống xã hội của con người. Cũng chính vì vậy mà con người thường bị ức chế về tình dục, tuy luôn luôn nhớ nghĩ về nó nhưng cũng luôn luôn phải đè nén nó. Do đó tình dục là một trong những ức chế lớn nhất của con người, thật ra là ức chế chủ yếu của đời làm người. Nền tâm lý học phương Tây cũng đã có những phát hiện tương tự.
Vì vậy khi Osho chủ trương con đường giải thoát là phải đối diện, nếm trải mọi năng lực bị ức chế để có thể siêu việt và chuyển hoá chúng, thật ra ông không thể không nói đến tình dục, nếu ông thật sự nhất quán với chính mình. Và thực ra mỗi kẻ tầm đạo, một khi đã đi vào con đường tích cực và chuyển hoá, cũng phải tìm cho mình một phương thức riêng để chuyển hoá năng lực của tình dục. Đó là một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn “chuyển hoá” thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể toả hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim cương thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.
Mặc dù những đệ tử của Osho không thể đạt được thành tựu như ông mong muốn, nhưng đã hai thập kỷ kể từ ngày ông mất, những tác phẩm của ông đã phổ biến trên khắp thế giới dưới sự bảo hộ của Hiệp hội Osho Toàn cầu. Phương pháp Thiền của ông bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam thông qua các cuốn sách và các lớp học thiền định. Ở Việt Nam hay ở bất cứ nước nào trên thế giới, rõ ràng phương pháp của ông đã khiến cho con người có được lý thuyết sống hợp lý, giúp giải thoát khỏi sự áp chế của các dục vọng, chuyển hóa năng lượng dục thành một thứ năng lượng sống có ích.




Phương pháp thiền đơn giản
Thiền và tập trung tư tưởng
Cách ngồi thiền chữa bệnh
Cách ngồi thiền định đúng phương pháp
Cách ngồi thiền đúng phương pháp
Phương pháp thiền chỉ căn bản cho người mới tập



(st)