Phương pháp dạy con bắt đầu vào lớp 1
Phương pháp chữa bệnh hen suyễn cực hiệu quả
Làm sao để khuôn mặt hết béo bằng các phương pháp đơn giản?
Cách chăm sóc cây tài lộc cỏ may mắn đúng phương pháp nhất
Cách điều trị bệnh trầm cảm nhanh khỏi bằng phương pháp đơn giản
Thở ngực là thở tự nhiên của một người bình thường, mục đích trao đổi oxy vá thải CO2 chỉ có cơ ngực hoạt động mà thôi. Theo quan niệm của khí công Trung Quốc, thở kiểu này không trường thọ và không chống đỡ được bệnh tật, lão hóa vì thở cạn quá.
Thở bụng khí công
Có nhiều cách, nhưng cách thông dụng và đơn giản nhất, không gây tác dụng phụ (tẩu hỏa nhập ma) là thở sổ tức 1 - 1. Theo cố GS. Ngô Gia Hy, hít vào ph́nh bụng thuộc dương (kích thích trực giao cảm theo quan niệm Tây y) và thở ra hóp bụng lại thuộc âm (kích thích hệ đối giao cảm), thời gian hai kỳ thở phải bằng nhau để cân bằng âm dương. Nhịp thở phải chậm, sâu, nhẹ, dài.
Khi hít vào phình bụng, cơ hoành hạ xuống làm cho các cơ quan trong bụng bị đẩy xuống; khi thở ra hóp bụng tối đa, cơ hoành nâng lên, các cơ quan bị kéo lên. Hoạt động đó đă massage liên tục đều đặn và nhẹ nhàng những cơ quan bên trong như ruột, gan, dạ dày, lá lách... làm điều hòa các nội tạng, nhất là cơ quan tiêu hóa. Thở như vậy cũng điều ḥa hệ thần kinh thực vật, ta làm chủ hệ thần kinh, từ đó khí huyết lưu thông mạnh mẽ, tránh được các rối loạn thần kinh như stress, những bệnh về hưng phấn hoặc ức chế hệ thần kinh... Nhịp độ thở chậm sâu dài giúp cho oxy đến đầy đủ tận cùng toàn bộ tế bào trong cơ thể, do đó sẽ có sự chuyển hóa hoàn toàn nhất, tránh được khả năng đào thải những chất có gốc tự do gây bệnh và các chất oxy hóa từ tế bào tự hủy hoại v́ thiếu oxy, đó là mầm mống của bệnh tật.
Theo khí công, thở bụng dưới tức là thai tức pháp, là sự thu hút lấy năng lượng khí dương ngoài không gian quanh ta (thiên khí) và khí âm dưới đất (địa khí) theo với oxy vào phổi và theo huyết xuống đan điền (bụng dưới) để biến thành chân khí, theo các kinh mạch đến nuôi dưỡng lục phủ ngũ tạng.
Thở bụng dưới cũng là luyện vòng tiểu chu thiên (vòng nhâm đốc), điều hòa các kinh âm ở trước thân do mạch nhâm đảm nhiệm và điều hòa các kinh dương ở sau lưng do mạch đốc đảm nhiệm. Ngoài ra c̣n điều khí đi vào kỳ kinh bát mạch (vòng đại chu thiên), đả thông các kinh mạch làm cho con người vô bệnh, trường thọ và chống lăo hóa. V́ vậy khí công có thể chữa được bệnh mất ngủ, cao huyết áp, thấp huyết áp, suy nhược cơ thể, chóng mặt, rối loạn thần kinh thực vật, điều hòa khí huyết, rối loạn thần kinh tim, phục hồi được nguyên khí cho cơ thể một khí quá mệt do bị tiêu hao khí lực v.v...
Trong thở bụng dưỡng sinh, nên tránh những kiểu thở quá căng thẳng, bế, ép, nén dễ đưa đến tác dụng phụ không tốt cho cơ thể. Phải chú ý ở đan điền, thở hít khoan thai chậm răi, nhẹ nhàng, sâu, dài. Toàn bộ cơ thể đều phải thư giăn, thả lỏng th́ nội khí mới sản sinh ra được và khí mới lưu thông trong cơ thể. Vừa thở vừa cảm giác được bụng ph́nh ra và bụng hóp lại. Ban đầu thở chỉ là ư thức nhưng lâu ngày sẽ biến thành vô thức. Thật vậy, sau chừng một năm luyện khí công thở bụng, người tập sẽ chuyển được từ thở ngực qua thở bụng một cách phản xạ, dù lúc nghỉ ngơi hoặc sinh hoạt b́nh thường. Đây là một ích lợi thiết thực để tiến đến trường sinh bất lăo.
Kỹ thuật thở bụng khí công
Về mặt dưỡng sinh th́ nên thở bụng theo kỹ thuật sau đây:
- Đứng hoặc ngồi trên ghế hoặc ngồi xếp bằng đều được.
- Hai tay chồng lên nhau trước đan điền (là một huyệt ở bụng dưới, cách rốn khoảng 3 - 4 cm), nam đặt tay trái trong, nữ đặt tay phải trong. Lưỡi đặt trên vòm họng, sát chân răng để nối thông vòng nhâm đốc. Bắt đầu tập trung tư tưởng, mắt mở hay nhắm cũng được, thả lỏng thư giăn toàn bộ cơ thể.
- Hít vào bụng dưới phình to ra, khí từ huyệt thừa tương (huyệt ở chỗ lõm dưới môi dưới) xuống đan điền và hội âm (huyệt sát hậu môn). Người mới học không nên cưỡng ép quá và không cần cố gắng phình to lắm mà chỉ phình ra chút xíu là được, từ từ lâu ngày sẽ đạt. Hơi thở cần chậm, nhẹ, sâu, dài, không nín hơi.
Khi đă hít vào tối đa, từ từ thở ra cũng chậm sâu dài, 2 tay ép vào bụng dưới càng sâu càng tốt, hậu môn nhíu lại một chút để khỏi bị thoát khí. Khí qua huyệt trường cường và đi lên dọc theo mạch đốc đến huyệt bách hội giữa đỉnh đầu, xuống huyệt ngân giao (vòm họng trên). Khi thở ra hết rồi thì bắt đầu hít vào trở lại không nín
hơi, hậu môn không nhíu nữa. Nên nhớ thời gian hít và thở bằng nhau.
Giai đoạn đầu:
- Không quen thì không thể cân bằng 2 kỳ thở được, nhưng từ từ vài ngày quen sẽ cân bằng được.
- Giai đoạn mới học cần phải dùng 2 tay ôm bụng để biết rõ bụng phình và lấy tay đè vào bụng khi thở ra.
Giai đoạn sau:
- Khi đă quen cách thở bụng trong vài tháng, không cần chồng tay ôm bụng nữa.
Thở lúc nào?
- Thở mọi lúc mọi nơi nếu cần, với điều kiện là có không khí trong lành.
- Không được tập thở trong môi trường ô nhiễm, pḥng có máy lạnh, trong nhà đầy hơi người, dưới cây vào ban đêm (v́ cây thải CO2 vào ban đêm), và trước gió....
Để kết luận bài này, xin kể một mẫu chuyện nhỏ ở Trung Quốc:
Bữa nọ có một đại sư khí công Trung Quốc thuộc vào hạng thượng thừa sống trên trăm tuổi, có thể phát khí, phóng khí, đi trên nước nhẹ nhàng hoặc đứng vững nặng tựa như núi Thái Sơn. Đại sư hỏi một ông thầy khí công “trẻ” độ tuổi 60 rằng:
- Ông tập luyện khí công mỗi ngày mấy tiếng đồng hồ?
Nhà khí công trả lời: Tôi tập một ngày 2 tiếng.
Đại sư: Chưa đủ!
Nhà khí công: Một ngày tập 4 tiếng.
Đại sư: Chưa đủ.
Nhà khí công: 6 tiếng.
Đại sư: Chưa đủ!
Nhà khí công: Vô lư, bắt tôi phải tập suốt ngày suốt đêm hay sao? Quá sức
mà chết...
Đại sư cười và hỏi tiếp: Ông sống một ngày mấy tiếng?
Nhà khí công: Một ngày tôi sống 24 tiếng.
Đại sư: một ngày ông luyện tối đa 6 tiếng đi, th́ 18 tiếng còn lại ông không luyện, như vậy là quá ít, vì luyện ở đây không phải luyện động công suốt ngày có hại. Ông chỉ thở bụng khí công trong 6 tiếng tập mà thôi, 18 tiếng còn lại ông không thở bụng gì cả, thế th́ làm sao mà đòi trường thọ...!
Nhà khí công: xin đại sư chỉ giáo thêm cho rơ hơn.
Đại sư cười và chỉ nói mấy tiếng: Thở bụng khí công mọi lúc mọi nơi,
suốt cả cuộc đời, cho đến lúc nhắm mắt... Đó chính là bài tập đầu tiên sơ cấp
nhất và cũng là cao cấp nhất. Nói xong đại sư bỏ đi mất hút.
Nhà khí công ngẩn ngơ một hồi lâu và như bỗng ngộ ra, cùng lúc nhìn lên
bầu trời cao và thốt lên: Bấy lâu nay ta sai lầm trong luyện tập cũng chỉ vì chữ
THỞ quá dễ dàng này, bây giờ giác ngộ th́ì đă mất công phu hàng chục năm trời
rồi, thật tiếc và uổng phí công phu luyện tập trong hơn 40 năm qua...
Do đó qua câu chuyện này, ta nên suy gẫm và thấy rằng thở bụng dưới là
tối ư quan trọng, chớ nên khinh thường.
ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG LÀ GÌ ?
Âm Dương Khí Công là công phu luyện thở, nhằm điều chỉnh hai khí Âm và Dương trong hai mạch Nhâm và Đốc.
ĐẠI CƯƠNG
Đây là phép thở được điều khiển bằng "Ý", chứ không phải thở bình thường bằng phổi. Do đó không nên và không cần phải quan tâm đến lượng oxy vào phổi nhiều hay ít , mà chỉ nên quan tâm đến làn hơi tưởng tượng chạy trên hai mạch Nhâm Đốc vào lúc tập thở mà thôi.
Đây là lối thở "Yếm Khí" nên khác với một số lối thở khác, thay vì là thở ÊM, NHẸ, DÀI, SÂU như ở một vài phương pháp khí công, thì ở đây là ÊM, NHẸ, NGẮN, CẠN. Do đó ta không cần cố gắng hít vào cho thật nhiều oxy, hay thở ra cho thật hết khí cacbonic. Trái lại ,nên thở ra hít vào một cách kín đáo vừa phải, nhẹ nhàng như con rùa thở (Qui tức). Tất cả động tác đều buông lỏng tự nhiên, không được gắng sức thái quá, mà phải làm vừa sức. Tuyệt đối tránh mọi cố gắng nào đưa đến mệt nhọc cho cơ thể trong khi thở. Nói khác đi, trong lúc thở hay sau khi tập thở một thời gian (Tối đa là 1 tuần) nếu thấy khoẻ là đúng. Nếu thấy mệt hoặc không có chuyển biến là đã tập sai phương pháp.
Tóm lại, nguyên lý chủ yếu của phương pháp này là luyện ý để điều tức ,chứ không phải luyện hơi, nên thở nhiều oxy vào là không cần thiết, thậm chí còn sai với phương pháp Âm Dương Khí Công.
Hãy thở như thế nào để người ngoài nhìn vào thấy như không thở (Dụng ý bất dụng lực). Có thể nói thở như không thở mới gọi là thở Âm Dương Khí Công.
ØNắm vững nguyên lý:Tâm-Ý-Khí-Lực. Ý dẫn Khí, Khí dẫn Huyết, Huyết dẫn Lực.
ØTuân thủ nguyên tắc: Vừa phải, thoải mái, tự nhiên, linh động, sáng tạo.
ØBiện chứng Đông Y: Âm Dương mất quân bình sinh bệnh. Chữa bệnh là điều chỉnh, lập lại quân bình Âm Dương. Cực Dương sinh Âm, Cực Âm sinh Dương. Vật cực tắc phản, vật động tắc biến. Nhân thân tiểu thiên địa, thiên nhân hợp nhất, vạn vật đồng nhất thể. Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông.
Đây là phương pháp thở mà chủ đích của nó là luyện thần kinh cho thật vững chắc, nói cách khác là luyện ý lực, nôm na là luyện cái đầu chứ không phải là luyện cơ bắp hay buồng phổi. Cơ sở của nó là thông qua việc tập trung tư tưởng tạo thành thói quen theo dõi làn hơi chạy trên hai mạch Nhâm Đốc mỗi ngày, các bạn sẽ dần dần có ý lực mạnh. Chính điều này sẽ giúp cơ thể khoẻ mạnh (Ý dẫn Khí , Khí dẫn Huyết, Khí Huyết lưu thông làm cơ thể khoẻ mạnh) và cũng làm hệ thần kinh vững chắc, sáng suốt và nhiều ý chí hơn. Chính thông qua việc luyện ý này, tự ta sẽ điều chỉnh được hai khí Âm Dương trong cơ thể khi cần thiết và làm cho nó được quân bình, mà Âm Dương quân bình thì cơ thể sẽ khoẻ mạnh.
Đây cũng là điểm độc đáo của phương pháp Âm Dương Khí Công, vì nó cho phép người tập có thể tăng hay giảm khí Âm hoặc Dương trong cơ thể thông qua việc luyện thở đúng qui tắc , và như thế cũng có nghĩa là cho phép người tập không những tự phòng bệnh mà có thể tự chữa được một số bệnh do mất quân bình Âm Dương gây ra, cũng như tăng cường thể lực, giúp cơ thể khoẻ mạnh, tươi trẻ, vui vẻ, sống lâu. Ngoài ra , nó còn có thể hỗ trợ cho người tập trong rất nhiều lĩnh vực khác như Thiền (có thể coi nó là phương pháp trợ Thiền rất tốt. Nhiều người tập Thiền đã cho biết nếu thở Âm Dương Khí Công lúc sắp Thiền định, hoặc trong khi Thiền thì sẽ tránh được tình trạng mỏi mệt hoặc hôn trầm khi phải ngồi Thiền lâu, mà lại còn dễ định tâm hơn , khi xả Thiền thấy rất sáng suốt, thoải mái), chơi cờ vua, chơi thể thao (như đánh tennis, bơi lội, đá banh, chạy đua...) ,tập võ thuật ,học hành (học chữ hay học nghề tay chân), thai giáo (giáo dục con cái từ lúc còn trong bào thai), ca nhạc..vv....Cho nên, nếu biết khai thác, vận dụng khéo léo và sáng tạo phương pháp thở này, nó sẽ giúp ích cho ta rất nhiều về mặt thể xác lẫn tinh thần.
HƯỚNG DẪN CÁCH THỞ:
Có 2 cách thở
CÁCH THỞ 1:
1/. Thở đường Dương :(còn được gọi là thở theo Nhâm Mạch)
Giai đoạn 1: Xoa mặt mũi chân tay cho thật tỉnh táo.
Giai đoạn 2: Hít vào thở ra khá sâu vài lượt để tạo trớn (thở tự do).
Giai đoạn 3: Bắt đầu hít vào bằng mũi, hít rất nhẹ và chậm, một cách tự nhiên, vừa hít vừa nghĩ tưởng tượng có 1 làn hơi như sương khói và nhỏ cỡ chiếc đũa hoặc nhỏ hơn, chạy dưới da vài mm từ đầu mũi xuống bụng qua rốn khoảng 3-4 cm nơi Đan Điền - Khí Hải thì dừng lại. Ngay lúc ấy liền nín thở chứ không nén hơi tại đây.
LƯU Ý: Chỉ nên để ý đến làn hơi tưởng tượng chứ không cần để ý đến hơi thở thật.
Giai đoạn 4: Nín hơi ở Đan Điền độ 5-10 tiếng đếm (đếm thầm) tùy sức của mình. Đồng thời , tập trung tư tưởng ở đó.
Giai đoạn 5: Sau khi nín hơi xong. Bắt đầu tưởng tượng làn hơi khi nãy chạy ngược lên theo đường cũ đến mũi.
Giai đoạn 6: Đến đây bắt đầu thở ra bằng mũi nhẹ nhàng và thoải mái vừa phải (lưu ý không được thở hết hơi cacbonic trong phổi ra. Mà trái lại, nên thở nhẹ và ít thôi). Tóm lại , hít vô và thở ra cũng ít mới là đúng.
LƯU Ý: Nếu khó tưởng tượng thì có thể DÙNG ĐẦU NGÓN TAY KÉO TRÊN DA ( từ đầu mũi xuống Khí Hải và sau đó ngược trở lên mũi ) để Ý TƯỞNG nương theo đó mà đi sẽ dễ hơn.
2/. Thở đường âm:(còn gọi là thở theo Đốc Mạch)
Cách thở đường Âm giống cách thở đường Dương ở phần đầu (các giai đoạn 1,2,3 và 4 ) tức là phần hít vào. Nó chỉ khác ở phần thở ra như sau:
Giai đoạn 5 : Sau khi xong giai đoạn 4, hãy bắt đầu tưởng tượng cho làn hơi từ Đan Điền chạy xuống bộ phận sinh dục,vòng xuống luồn qua hậu môn (sẽ cảm giác hậu môn nhíu 1 cái bắt buộc mới đúng), vòng qua chót xương khu, theo cột sống chạy lên (cũng chạy dưới da vài mm, không được cho hơi chạy trong ống cột sống), qua ót, lên đỉnh đầu rồi chạy xuống đầu mũi.
Giai đoạn 6 : Đến đây, thở ra nhẹ nhàng, vừa phải bằng mũi (cũng thở ra nhẹ và ít như lúc thở đường Dương )
LƯU Ý: Ta cần chú ý mấy điểm sau đây rất quan trọng:
Không được phình bụng, phình ngực cố sức hít vào cho thật nhiều oxy như một số lối thở khác đã có, trái lại hít vào ít và thật êm, thật thoải mái, tránh nén hơi hay gồng cứng cơ bắp ở ngực bụng hay tay chân, vì điều này sẽ đem lại hiệu quả xấu, cũng như có nghĩa là sai phương pháp Âm Dương Khí Công. Tóm lại, phương pháp này tránh sự cố gắng quá sức.
Lúc mới tập, chưa quen nín thở lâu tại Đan Điền, ta nên hít hơi ít, chậm và tưởng tượng làn hơi chạy nhanh, vì nếu ta cố tưởng tượng cho nó đi chậm thì sẽ bị ngộp thở do nín hơi quá lâu, nhất là khi thở đường Âm. Vì vậy phải tưởng tượng cho làn hơi chạy nhanh hơn trên Mạch Đốc, nếu không ta phải thở ra nửa chừng, và như thế là không có kết quả mà còn có hại.
Nên nhớ không nhất thiết làn hơi tưởng tượng phải cùng tốc độ với hơi thở thật, mà thường phải nhanh hơn hơi thở thật. Thông thường tưởng tượng từ mũi đến Đan Điền, cũng như từ Đan Điền lên đến mũi (đường Dương) khoảng 1-2 giây, còn từ Đan Điền xuống hậu môn vòng ra sau lưng lên đầu rồi ra mũi (đường Âm) khoảng 3-4 giây. Nhiều người vì không để ý điều này nên tưởng tượng làn hơi đi xuống Đan Điền rất chậm, cho nên có hiện tượng thiếu oxy và rất mệt. Do đó tập hoài không thấy kết quả và tất nhiên sẽ bỏ cuộc.
Trong cả hai đường thở Âm Dương, sau lúc nghỉ ở Đan Điền, tuyệt đối tránh hít hơi vào một lần nữa hay thở ra cùng lúc với làn hơi đang tưởng tượng đi ra (phải đưa ý tưởng tượng lên đến mũi, lúc bấy giờ mới được thở ra). Như vậy, trước sau gì cũng có 1 lần hít vào, 1 lần thở ra thôi. Và 2 lần này: 1 hít, 1 thở gọi là 1 đường thở hay 1 lượt thở.
Lúc thở không được tự ám thị mình, tưởng tượng hơi thở này nóng hơi thở kia lạnh, hoặc nghĩ rằng thở vào sẽ khoẻ mạnh, mà chỉ nên quán tưởng làn hơi đi mà thôi. Nên nhớ: Tưởng tượng cho làn hơi chạy dưới da vài mm chứ không phải chạy trong cổ họng hay vào phổi, sẽ không có kết quả.
Nhâm Mạch theo châm cứu học là thuộc âm, nhưng đó là THỂ (bản thể) còn sở dĩ ta gọi ở đây là Dương là vì căn cứ vào DỤNG (tác dụng) của nó. Vả chăng, theo nguyên tắc Động (thì) biến, thì NHÂM Mạch thuộc Âm , khi động nó sẽ biến thành Dương. ĐỐC Mạch thuộc Dương sẽ biến thành Âm khi được tác động bằng ý tưởng. Điều này sẽ lý giải tại sao thở đường trước ngực (trên NHÂM Mạch) lại cho phản ứng Dương tính và khí thở đường phía sau lưng (trên ĐỐC Mạch) cho lại phản ứng Âm tính. Nếu không thông điều này, người tập sẽ hoang mang không dám tập, nhất là khi có người không hiểu lý lẽ mà tác giả vừa trình bày ở trên cố tình tác động vào, xuyên tạc sự thật làm cho người khác sợ mà không dám tập.
CÁCH THỞ 2 : (Thở trên da hay ngoài da)
Cách thở này dễ cho người mới tập hơn là cách thở 1. Do đó mau đạt kết quả hơn cho người tập. Cũng dẫn ý theo lộ trình đã trình bày ở cách 1, chỉ khác là ý tưởng tượng (dẫn ý) ở trên da , thay vì dưới da vài mm như cách thở1. Do đó không cần phải tưởng tượng làn khí chạy bám theo đường cong của cơ thể (Ví dụ từ mũi xuống Đan Điền không cần phải tưởng tượng làn hơi đi sát đường cong của cằm rồi xuống cổ , xuống ngực đến Đan Điền, mà chỉ tưởng tượng làn Khí đi thẳng từ đấu mũi đến Đan Điền cũng có kết quả). Cũng như cách 1, kết quả sẽ đến ngay với người tập trong vài buổi đầu nếu tập đúng.
TƯ THẾ , THỜI GIAN , KHÔNG GIAN LÚC TẬP THỞ:
Không nên thở lúc bụng còn đầy hay sau khi vừa ăn cơm xong (Trừ trường hợp cần thiết như cần phải thở để giải quyết 1 triệu chứng bệnh, 1 cơn đau đang xảy ra).
Đi, đứng, nằm, ngồi đều tập thở được. Nhưng lúc đầu nên tập ngồi thở, không cần ngồi Kiết già, chỉ cần ngồi xếp bằng hoặc ngồi trên giường hai chân thả xuống đất, bàn chân phải đi giầy hay để trên thảm và thẳng lưng là được. Hai bàn tay đan vào nhau hay là để úp trên 2 đầu gối đều được cả. Tránh gồng cứng, và phải để lỏng thắt lưng, mắt nên mở không nên nhắm sẽ tốt hơn. Tuy nhiên nếu mở mắt khó tập trung tư tưởng, thì cứ theo thói quen hé mắt hay nhắm mắt cũng được, nhưng sẽ khó tập thở trong lúc đi, đứng, làm việc sau này.
LƯU Ý : Khi tập thở tránh ngồi sát mặt đất (phải ngồi cách mặt đất), trên di-văng là tốt. Tránh ngồi trên nệm, có độ đàn hồi cao.
Nên tập nơi cao ráo, thoáng mát, không khí trong sạch, cần tránh nơi bị ô nhiễm, nhất là hóa chất hay mùi hôi thối, bụi bặm.
Tối: nên tập lúc 23-1 giờ đêm. Sáng: nên tập lúc 5-7 giờ sáng. Mỗi ngày tập thường xuyên 2 lần. Trường hợp đặc biệt mới tập 4 lần chia theo 4 thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Ngoài ra , khi cần thiết cứ thở theo nhu cầu lúc bấy giờ.
Tránh nơi ồn ào, có người qua lại quấy phá mình.
VỀ TỶ LỆ THỞ
Mỗi lần thở: trung bình từ 4-5 hơi cho mỗi đường Âm hay Dương (Trừ giai đoạn đầu tập thở có thể tập đến 10 đường Âm hay Dương cho mỗi lần tập).
Tự định và điều chỉnh hơi thở của mình giửa 2 đường Âm, Dương sao cho phù hợp với sức khoẻ và cơ thể của mình. Đó gọi là TỶ LỆ VÀNG.
Thí dụ đối với người tạng Âm, hay bị Âm bệnh ( bệnh hư hàn ), hay sợ lạnh, lười biếng, mệt mõi thì tỷ lệ 5 Dương /1 Âm có thể là TỶ LỆ VÀNG.
Tóm lại : TỶ LỆ VÀNG là tỷ lệ giửa số lượt thở Âm và Dương thích hợp nhất đối với cơ thể 1 người trong 1 giai đoạn nào đó.
LƯU Ý: Để đạt TỶ LỆ VÀNG , người tập phải TỰ TÌM RA bằng cách theo dõi sát tình trạng cơ thể mình sau mỗi ngày tập thở ( sẽ tìm được sau 1 thời gian tập )
KINH NGHIỆM THỞ
Lúc tâm trí bối rối, không ổn định tư tưởng hay có kẻ quấy rầy thì không nên tập thở. Chỉ nên tập thở lúc bình tâm thoải mái.
Giai đoạn đầu nên tập thở thuần Dương trong vòng 1 tuần (mỗi lần 10 hơi).
Khi tập đường Dương có kết quả rồi, hãy tập sang đường Âm mới dễ có kết quả (cũng tập 1 tuần), mỗi lần tập thở 10 đường.
Nếu sau 1 tuần vẫn chưa đạt kết quả, thì phải tiếp tục tập cho đến khi có kết quả mới đổi sang tập đường Âm
Tuy nhiên, trong thực tế lại có người hạp đường Âm hơn. Trường hợp này có thể tập đường Âm trước cũng được.
LƯU Ý: Nếu thở đường Dương mà thấy cơ thể nóng quá thì có thể bớt số lượt thở lại cho bớt nóng. Thở đường Âm cũng vậy, nếu thấy ngủ quá nhiều thì bớt lại. Tóm lại , phải nhớ linh động, gia giảm sao cho đạt kết quả tốt là được.
Khi tập có kết quả ở cả 2 đường thở, lúc bấy giờ hãy tự định cho mình 1 tỷ lệ thở tùy theo tình trạng sức khoẻ của mình, căn cứ vào tiêu chuẩn Âm-Dương-Hàn-Nhiệt .
Ví dụ : Thấy trời nóng, ta cũng cảm thấy nóng trong người, ta phải thở đường Âm nhiều hơn , như 1 Dương 3 Âm chẳng hạn, thở xong, theo dõi sát cơ thể (phải tập lắng nghe cơ thể mình) xem có dễ chịu không, có khoẻ không, nếu vẫn còn nóng thì tăng thêm lần Âm lên nữa, nếu lạnh thì bớt lại...vv....Hãy tự mình kiểm tra cơ thể của mình và gia giảm làm sao cho hài hòa tốt đẹp nhất cho cơ thể, đó gọi là TỶ LỆ VÀNG.
LƯU Ý: Các tỷ lệ trên chỉ là gợi ý. Trên thực tế phải tùy cơ thể mà định tỷ lệ thích hợp cho mình.
Tóm lại , phải chịu khó theo dõi sát sao cơ thể mình, để từ đó điều chỉnh tỷ lệ thở Âm-Dương thích hợp. Thở đường Âm là ức chế thần kinh, là làm mát người. Thở đường Dương là làm hưng phấn thần kinh, làm ấm cơ thể. Nhưng phải đề phòng, thở nhiều quá có thể bị phản phục: Vật cực tất phản (nguyên lý của Dịch)
Có thể xen kẽ đường Âm -đường Dương , hay thở 1 loạt đường này rồi 1 loạt đường kia. Có thể thở thuần Dương, hay thuần Âm cho mỗi lần tập hay mỗi giai đoạn tập , hoặc theo nhu cầu. có thể thở làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần 1-2 đường thở. Trong mỗi lần tập không nhất thiết phải thở liên tục theo phép thở Âm Dương vì dễ bị mệt khi mới tập (thiếu oxy vì hít vô rất ít). Do đó có thể xen kẽ thở tự do ( hít vô đầy phổi nhiều oxy và thở ra cho cạn phổi ) giữa các đường thở theo Âm Dương Khí Công.
Tránh thở đường Âm khi bị cảm lạnh hay đường Dương khi bị cảm nóng (vì sẽ làm bị cảm nặng hơn và kéo dài ). Trái lại , hãy thở 1 loạt 5,10 đường Dương nếu chớm cảm lạnh, hay thở 1 loạt đường Âm nếu chớm cảm nóng . Tuy nhiên nếu bệnh cảm đã hình thành thì ngưng tập thở, chữa cho hết hẳn bệnh rồi mới tập tiếp.
DẤU HIỆU THỞ ĐÚNG :
Đường Dương: Nếu thở đúng sẽ cho cảm giác hưng phấn, lạc quan, hăng hái, yêu đời, nóng tính, tăng cường trí nhớ và thông minh, khoẻ trong người, ăn ngon, mau đói , tăng trọng lượng (mập , lên ký ), ham làm việc, dai sức, mạnh hơn, khoẻ hơn, phản xạ nhanh hơn, tự tin, can đảm hơn, ấm áp hay nóng nhiệt trong người, táo bón (tuy nhiên có người lại xổ độc hay đại tiện được dễ dàng chứ không táo bón vì đó là bón Âm), trung tiện nhiều, giảm tiết dịch, tiểu ít. Nếu thở nhiều sẽ làm nhức răng, sưng nướu răng, nặng đầu, nổi mụn nhọt, tiểu gắt, tiểu đỏ, đau lưng, mất ngủ (tuy nhiên sẽ có người ngủ ngon và dễ hơn, vì cơ thể bị Âm hàn, thở đường Dương cơ thể ấm áp hơn và quân bình Âm Dương. Do đó dễ ngủ chứ không có gì lạ) , tăng huyết áp, lâu lành vết thương , hưng phấn tình dục , cầm máu , ghẻ lở...Đặc biệt sau khi thở có kết quả thì khi vận động nhiều như đánh tennis chẳng hạn, cơ thể sẽ ra ít mồ hôi hơn trước khi tập thở. Sở dĩ có hiện tượng này là vì cơ thể dồi dào Khí Dương hơn trước. Mà đặc tính của Khí Dương là giàm tiết dịch, giảm xuất tiết ( do đó làm giảm mồ hôi, giảm đi tiểu dù uống nước nhiều hơn, vì khát nước hơn khi thở đường Dương. Đây là điểm rất đặc biệt khác với quan điểm thông thường của Tây Y là hễ uống nước nhiều thì phải đi tiểu nhiều )
Đường Âm: Nếu thở đúng sẽ có hiện tượng ức chế thần kinh, buồn ngủ (nhưng đối với những người cơ thể hư hàn hoặc Âm tạng thì lại khó ngủ hơn), lười biếng, nguội tánh, mau mệt, không cảm thấy đói bụng, giảm cân, mát người, nhuận trường xổ độc, mau lành vết thương..vv...Nếu thở nhiều sẽ bị tiêu chảy, tiểu nhiều, tiểu trong, đau lưng, ngủ nhiều, hạ huyết áp, dễ bị cảm lạnh, sổ mũi, tăng tiết dịch, dễ bị xuất huyết, mỏi và mềm cơ bắp, phản xạ chậm, bi quan, thiếu tự tin, thiếu can đảm, ức chế tình dục....Đặc biệt thở nhiều đường Âm sẽ rất ít khi khát nước (do đó uống ít nước nhưng lại đi tiểu nhiều. Nghe ra rất nghịch lý nhưng lại là sự thật )
KẾT QUẢ :
Nếu tập đúng phương pháp thì chỉ sau 1 đến 3 ngày hoặc 1 tuần là đạt được các kết quả như trên. Nếu tiếp tục tập thường xuyên và lâu ngày người tập có thể PHÁT KHÍ ( PHÓNG KHÍ ) qua 2 bàn tay được, ngũ quan trở nên linh mẫn, đầu óc sáng suốt , thân thể nhẹ nhàng. Ngoài ra, chúng ta có thể dùng Âm Dương Khí Công để tự chữa cho mình một số bệnh như tiểu nóng gắt (thở đường Âm ), suyễn (đa số thở đường Dương ) , đau bụng , tiêu chảy , đau lưng , mệt mỏi thì nên thở đường Dương; đau bao tử, đau răng nên thở đường Âm, mệt tim, mất ngủ , táo bón, viêm họng, huyết áp cao..vv...Sau khi tập lâu ngày có thể dùng Khí Công để chữa một số bệnh cho người khác. Phải cẩn thận không dụng công chữa bệnh cho người khác khi sức (Nội lực ) còn yếu hay khi trong mình không được khoẻ...
DẤU HIỆU THỞ SAI:
Tức ngực, bụng; mệt hoặc tức 1 chỗ nào đó trên cơ thể , chóng mặt, đổ mồ hôi dầm dề và mệt , tê dại tay chân , mệt tim....hoặc không có những kết quả đã trình bày ở phần thở đúng.
LỜI DẶN CẦN THIẾT
Người có bệnh huyết áp cao tránh thở nhiều đường Dương, người bị huyết áp thấp tránh thở nhiều đường Âm. Tuy nhiên , ở một số trường hợp đặc biệt như Huyết Áp Cao Âm chứng thì thở Dương lại làm Huyết áp hạ xuống, và thở Âm lại làm Huyết áp tăng lên (Huyết Áp Cao Âm Chứng là Huyết áp không kèm theo xơ mỡ động mạch, cũng như lượng cholesterol và calci trong máu thấp; hay bình thường là bị xơ mỡ động mạch và có lượng cholesterol trong máu cao). Hạn chế càng nhiều càng tốt việc uống nước đá lạnh , thức uống có nước đá , nhất là ngay sau khi tập thở sẽ làm giảm kết quả của việc tập thở rất nhiều.
Vì đây là phương pháp nhanh, mạnh, toàn diện cho nên tránh ham thở nhiều (không quá 10 lần thở trong 1 buổi tập). Trừ trường hợp cá biệt như chơi thể thao , đánh võ....
Bế khí nhập tĩnh công
Cách ngồi thiền chữa bệnh
Phương pháp thiền chỉ căn bản cho người mới tập
Phương pháp thiền của Phật Giáo
Phương pháp thiền căn bản cho người mới tập
Phương pháp thiền dưỡng sinh căn bản
(st)