1.Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.1.Đại cương:
Sa trực tràng là tình trạng bệnh lý mạn tính tại trực tràng và ống hậu môn khi một hoặc nhiều lớp của trực tràng, ống hậu môn sa ra ngoài hậu môn.
Bệnh gặp ở cả nam và nữ, ở mọi lứa tuổi, nhưng phần nhiều thấy ở trẻ em và người già, phụ nữ sau khi chửa đẻ nhiều lần. Bệnh tiến triển mạn tính, không ảnh hưởng đến sinh mạng nhưng gây phiền phức trong cuộc sống sinh hoạt. Y học cổ truyền có nhiều kinh nghiệm điều trị có hiệu quả chứng bệnh này.
1.2.Phân loại và phân độ:
1.2.1.Phân loại:Có nhiều cách phân loại khác nhau, theo cách thông thường hiện nay chia thành 2 loại:
- Sa trực tràng không hoàn toàn (sa niêm mạc trực tràng)
- Sa trực tràng toàn bộ: tất cả các lớp của trực tràng, thậm chí cả một phần của kết tràng xích ma cũng sa ra ngoài ống hậu môn.
1.2.2.Phân độ:
-Sa độ I: niêm mạc trực tràng sa lồi, màu hồng, dài từ 3 - 5 cm, sờ thấy mềm mại, không chảy máu tươi, sau khi đại tiện khó có thể tự co lên được.
-Sa độ II: sa lồi toàn bộ lớp trực tràng, dài 5 - 10 cm, hình chóp cụt, màu hồng nhạt, các nếp hình vành khăn, sờ thấy tương đối dầy, hậu môn chùng lỏng, sau khi đại tiện phải đẩy lên.
-Sa độ III: sa trực tràng và một bộ phận của kết tràng xich ma sa ra ngoài hậu môn, dài trên 10cm, hình trụ, sờ thấy rất dầy, thăm hậu môn lỏng lẻo, mất sự co thắt tại hậu môn.
1.3.Chẩn đoán phân biệt:
- Trĩ nội độ III, IV dạng trĩ vòng kèm theo có sa niêm mạc trực tràng: bệnh sử có đi ngoài ra máu tươi nhỏ giọt hoặc phun thành tia, giữa các búi trĩ đều có ranh giới rõ ràng các búi trĩ thường ứ máu màu đỏtươi hoặc xanh tím.
- Nhú phì đại tăng sinh: thường thấy ở trung niên, do viêm mạn tính kích thích ở hậu môn phát sinh nhú nhì đại. Trường hợp nhú lớn sau đại tiện lòi ra khỏi hậu môn, dạng hình chóp bề mặt là thượng bì màu vàng nhạt hoặc xám nhạt, sờ thấy tương đối chắc, có thể chảy máu.
2.Y HỌC CỔ TRUYỀN
2.1.Bệnh danh: Thoát giang.
2.2.Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh:
Y học cổ truyền cho rằng bệnh do khí huyết không đầy đủ, tạng phủ hư tổn, táo nhiệt ở đại trường hoặc thấp nhiệt hạ chú, đều dẫn đến khí hư hạ hãm, cân cơ tại chỗ không vững chắc. Trẻ em khí huyết chưa thịnh vượng, phụ nữ khi sinh đẻ rặn nhiều làm tổn hao phần khí;Người già khí huyết hư hao, trung khí không đầy đủ, khí hư hãm xuống, chức năng có nhiếp mất điều khiển...đều có thể dẫn tới phát sinh chứng thoát giang.
Theo lời kể của bệnh nhân, ông được ông sui tặng thuốc thoa rụng trĩ. Sau khi thoa thì thấy đau nhiều, ớn lạnh, sốt, không ngủ được. Tuy nhiên, nghe theo lời dặn của ông sui, bệnh nhân tiếp tục thoa thêm sáu ngày nữa, khiến khối màu hồng mềm ngoài hậu môn trở thành khối đen cứng. Khối sa ra ngoài lúc đầu còn đẩy vào hậu môn được nhưng sau đó thì không thể. Bệnh nhân chỉ có thể nằm nghiêng hay ngồi một mông. Sau hai tuần chịu đựng đau đớn, mất ngủ và bất tiện trong sinh hoạt, bệnh nhân đành lên TP.HCM điều trị. Đây có thể coi là một trường hợp điển hình của sa trực tràng hoại tử do thoa thuốc điều trị trĩ theo kinh nghiệm dân gian.
Ai dễ bị sa trực tràng?
Sa trực tràng là tình trạng thoát xuống của phần trên trực tràng qua hậu môn ra ngoài. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em dưới ba tuổi và người lớn trên 50 tuổi. Đa số xảy ra ở phụ nữ, 35% ở phụ nữ sanh đẻ nhiều, 25 – 50% ở bệnh nhân táo bón kéo dài, 50 – 70% bệnh nhân có triệu chứng mất tự chủ đi cầu, 15% có kèm sa sinh dục và 35% kèm theo sa bàng quang.
Từ năm 1847, Bodenhamer đã nêu ra hai yếu tố dẫn đến sa trực tràng:
Gia tăng áp lực ổ bụng: các yếu tố làm gia tăng áp lực ổ bụng là đứng lâu, rặn gắng sức khi đi cầu trong tư thế ngồi xổm, táo bón kéo dài, sanh đẻ nhiều lần, hẹp niệu đạo, ho kéo dài…
Yếu kém cơ vòng hậu môn và cơ vùng chậu: do bệnh lý về não và tuỷ sống, sang chấn não và tuỷ sống, phẫu thuật vùng hậu môn, sang chấn sản khoa, suy dinh dưỡng, tâm thần…
Ở trẻ em, sa trực tràng thường kèm theo các bất thường bẩm sinh ở vùng chậu, xương thiêng và xương chậu mất độ cong và thẳng đứng, đại tràng chậu hông dài và di động nhiều, suy yếu sàn chậu do suy dinh dưỡng và tình trạng gia tăng áp lực do táo bón…
Triệu chứng
Khối sa ở hậu môn dài và tròn đều theo hình tròn đồng tâm khi đi cầu hay khi ngồi xổm, khối này tiết chất nhầy, ngứa, đôi khi có chảy máu. Bệnh nhân có triệu chứng rối loạn đi cầu như táo bón hay mót cầu nhiều lần trong ngày, hay mất tự chủ đi cầu. Sa trực tràng nếu không điều trị có thể gây loét trực tràng, chảy máu vết loét, hoại tử khối sa trực tràng…
Bệnh khó phòng ngừa Rất khó phòng ngừa sa trực tràng ở người lớn, vì liên quan nhiều đến những khiếm khuyết cơ thể học như đại tràng chậu hông dài, trực tràng không bám vào xương thiêng, mạc treo trực tràng dài, sự giãn rộng của cơ nâng hậu môn và cơ thắt. Khi có các khiếm khuyết này mà kèm theo táo bón kéo dài, suy duy dưỡng thì bệnh sẽ phát triển. |
Coi chừng nhầm với sa trĩ
Sa trực tràng là bệnh hoàn toàn khác với bệnh lý sa trĩ mà ta thường gặp. Về triệu chứng, khối sa của trĩ thường ngắn và có từng búi không đều, khối trĩ sa có thể tiết dịch nhầy hay chảy máu. Nếu sai lầm trong chẩn đoán, chỉ định điều trị sẽ sai về phương pháp và gây nhiều hậu quả, vì hai bệnh hoàn toàn khác nhau.
Để điều trị sa trực tràng ở người lớn, hiện có rất nhiều phương pháp. Tuỳ theo đường mổ có hai nhóm phương pháp chính là mổ qua đường bụng treo trực tràng vào ụ nhô (rectopexy) và mổ qua đường tầng sinh môn. Hiện nay không còn mổ bụng theo phương pháp mổ hở nữa và chỉ còn mổ qua nội soi; phương pháp mổ nội soi treo trực tràng vào ụ nhô có kết quả tốt hơn, ít xâm nhập và ít biến chứng hơn mổ hở nhưng vẫn còn phải gây mê toàn thân. Với phương pháp mổ qua tầng sinh môn (phương pháp Altemeier hay Delorme hay Thiersch), thì chỉ cần gây tê tuỷ sống và khi phẫu thuật có thể phục hồi sàn chậu phù hợp với bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều bệnh lý kèm theo như tim mạch, nội tiết…