Tác dụng chữa bệnh của cây dừa cạn

Dừa cạn (tên khoa học catharanthus roseus, vinca rosea, thuộc họ trúc đào – Apocynaceae) là một loại cây thân thảo ưa nắng, tồn tại được trong các điều kiện khô hạn và thiếu dinh dưỡng, nên dễ dàng trồng trọt ở các nước ôn đới và nhiệt đới. Hoa có thể là màu hồng tím, trắng, hồng đào, đỏ cam, đỏ pha trắng,… Cây ra hoa quanh năm nên còn có tên gọi là trường xuân hoa, tứ thời hoa, nhật nhật tân.


Hiểu biết chung về cây dừa cạn

Dừa cạn còn gọi là trường xuân, hoa hải đằng, bông dừa, dương giác, pervenche de Madagascar. Tên khoa học Catharanthus roseus (L.) G. Don; Vinca rosea L; Lochnera rosea Reich. Thuộc họ Trúc đào Apocynaceae.

Mô tả cây: Cây nhỏ cao 0,4-0,8m, có bộ rễ rất phát triển, thân gỗ ở phía gốc, mềm ở phần trên. Mọc thành bụi dày, có cành đứng. Lá mọc đối, thuôn dài, đầu lá hơi nhọn, phía cuống hẹp nhọn, dài 3-8cm, rộng 1-2,5cm. Hoa trắng hoặc hồng, mùi thơm, mọc riêng lẻ ở các kẽ lá phía trên, quả gồm 2 đại, dài 2-4cm, rộng 2-3mm, mọc thẳng đứng, hơi ngả sang hai bên, trên vỏ có vạch dọc, đầu quả hơi tù, trong quả chứa 12-20 hạt nhỏ màu nâu nhạt, hình trứng, trên mặt hạt có các hột nổi thành đường chạy dọc. Mùa hoa quả gần như quanh năm.

Phân bố, thu hái và chế biến: Mọc hoang dại và được trồng ở nhiều nước nhiệt đới như Việt Nam, Ấn Ðộ, Indonesia, Philippine, châu Phi, châu Úc, Braxin... Tại châu Âu và châu Mỹ ở những vùng nóng cũng trồng quanh năm, nhưng ở những vùng lạnh cây được trồng theo mùa vì không chịu được lạnh. Ở Việt Nam gặp nhiều nhất tại các tỉnh gần biển, nhưng khắp nơi đều trồng được, trước đây chỉ được trồng làm cảnh, gần đây đã được trồng để thu hoạch lấy cây, lá và rễ chế thuốc.

Hiện nay, người ta đã xác định hoạt chất của dừa cạn là những ancaloit có nhân indol có trong tất cả các bộ phận của cây, nhiều nhất trong rễ và lá.

Công dụng và liều dùng: Chưa thấy tài liệu cổ của y học cổ truyền đề cập đến cây này. Theo kinh nghiệm sử dụng trong y học dân tộc của một số nước, rễ dừa cạn có tác dụng tẩy giun, chữa sốt. Thân và lá có tính chất săn da (astringent), lọc máu (dépuratif), dùng chữa một số bệnh ngoài da và nhất là chữa tiểu đường. Kinh nghiệm dùng dừa cạn chữa bệnh tiểu đường cũng được ghi nhận ở Ấn Ðộ, châu Úc, nam châu Phi, quần đảo Antilles, nhưng chứng minh bằng thực tế khoa học thì chưa có. Chính nhờ thực nghiệm trên chuột mà các nhà khoa học Canada đã phát hiện tác dụng làm giảm bạch cầu của một số chất tách được từ dừa cạn và dẫn đến sự phát hiện ra chất vincaleucoblastin và 3 ancaloit khác cũng có tác dụng chống u là leurosin, leurocristin và leurosidin. Ngoài ra người ta còn phát hiện tác dụng tẩy giun khá mạnh, tác dụng lợi tiểu của catharanthin, vindolinin và vindolidin, nhưng ajmalicin lại có tác dụng ngược lại. Những thí nghiệm dùng trên người bệnh được bắt đầu vào những năm 1960 ở Mỹ, Pháp và một số nước khác. Tuy nhiên còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Mặc dù vậy, vì hiện nay chưa có loại thuốc nào khác tốt hơn, nên nhu cầu về dừa cạn vẫn cứ tăng lên. Cũng vì mục đích dùng chữa các khối u nên khi mua dừa cạn, người ta đặc biệt chú ý tới hàm lượng ancaloit toàn phần, và trong số ancaloit toàn phần ấy có bao nhiêu hàm lượng vincaleu-coblastin.

Ở nước ta, nhân dân dùng dừa cạn dưới dạng thuốc sắc để làm thuốc lợi tiểu, chữa huyết áp, tiểu đường. Ngày dùng 10-16g.


Cây cảnh “kiêm” thuốc quý
Ở Việt Nam và một số nước châu Phi, châu Mỹ, dừa cạn được trồng cảnh và làm thuốc thông tiểu, điều kinh, trị tăng huyết áp, đái tháo đường, sốt rét, kiết lị, tiêu hoá kém… Bộ phận dùng làm thuốc là rễ, hoặc lá, hoặc cả cây. Thường thì người ta nhổ nguyên cả bụi cây đem về phơi khô, chặt nhỏ, có thể sao qua cho thơm trước khi nấu nước uống. Tuỳ vào mục đích trị liệu và kinh nghiệm địa phương, có thể dùng độc vị dừa cạn hoặc phối hợp với những vị thuốc khác.
Dừa cạn trồng ở Việt Nam chứa khoảng 0,1 – 0,2% alkaloid toàn phần. Trong đó, loại hoa trắng có tỷ lệ hoạt chất cao nhất. Tỷ lệ alkaloid trong rễ (0,7 – 2,4%) cao hơn trong thân (0,46%) và lá (0,37 – 1,15%). Hơn mười loại alkaloid được tìm thấy trong dừa cạn, chủ yếu là vinblastin, vincristin, tetrahydroalstonin, pirinin, vindolin, catharanthin, vindolinin, ajmalicin… Trong đó, ajmalicin có hiệu quả tốt trong điều trị rối loạn thần kinh tim. Còn vinblastin và vincristin có tác dụng làm ngừng sự phân chia tế bào ở pha giữa do có khả năng liên kết đặc hiệu với tubulin, protein ống vi thể ở thoi phân bào. Vì thế, chúng được sử dụng làm nguyên liệu bào chế thuốc điều trị ung thư.
Thuốc hay nhưng phải có thầy giỏi
Trong điều trị ung thư, thường sử dụng dạng muối sufat để chế tạo dạng chế phẩm tiêm truyền tĩnh mạch. Vincristin sulfat được sử dụng khá rộng rãi để điều trị ung thư máu, đặc biệt là bệnh bạch cầu lympho cấp. Trong khi đó, vinblastin sulfat lại có tác dụng tốt trong điều trị ung thư biểu mô tinh hoàn, hodgkin, ung thư nhau, ung thư biểu mô da đầu và ung thư biểu mô thận, u nguyên bào thần kinh, ung thư vú, ung thư cổ tử cung,… Một đặc tính của vinblastin là chưa phát hiện sự đề kháng chéo với các loại thuốc chống ung thư khác.
Bên cạnh việc sử dụng các alkaloid thiên nhiên chiết xuất từ dừa cạn, các chuyên gia dược học đã nghiên cứu bán tổng hợp một số alkaloid để mở rộng phạm vi và hiệu quả của điều trị ung thư. Vindesin, navelbin là những sản phẩm phối hợp những tính năng của cả vinblastin và vincristin có nhiều hứa hẹn trong lĩnh vực điều trị u thần kinh đệm mạn tính, u hắc sắc tố, u lympho bào, ung thư biểu mô trực tràng, đại tràng, vú, thực quản. Tương tự các loại thuốc kháng ung thư khác, các chế phẩm alkaloid của dừa cạn cũng gây một số phản ứng bất lợi như: buồn nôn, nôn, nhức đầu, tiêu chảy, táo bón, tắc ruột, liệt, chán ăn, viêm miệng, rụng tóc, giảm bạch cầu, viêm thần kinh. Sử dụng liều cao và kéo dài có thể gây mù, tử vong. Thuốc có thể gây độc cho thai, nên tránh dùng cho thai phụ và người đang nuôi con bằng sữa mẹ.
Dừa cạn là cây thuốc quý, nhưng hiệu quả điều trị phụ thuộc nhiều vào thể trạng của người dùng, diễn tiến của bệnh, các thuốc dùng kèm,... Việc tự theo dõi sức khoẻ, khám sức khoẻ định kỳ giúp phát hiện sớm bệnh là yếu tố quan trọng hàng đầu. Các chuyên gia y tế sẽ thăm khám và hướng dẫn phương pháp điều trị thích hợp với từng đối tượng cụ thể. Dù “thuốc hay” đến đâu cũng cần phải có “thầy giỏi” và sự hợp tác tích cực của chính bản thân người bệnh để quá trình điều trị đạt được hiệu quả cao nhất.
TS.DS Nguyễn Phương Dung
Một số bài thuốc từ dừa cạn
Tăng huyết áp: lấy 20g thân lá dừa cạn khô sao vàng và 20g lá dâu, sắc lấy nước, chia uống từ 2 – 3 lần mỗi ngày. Cách khác, lấy 6g hoa dừa cạn, 10g nụ hoa hoè (hoặc 10g cúc hoa), hãm với nước sôi trong bình kín khoảng 20 phút. Uống thay nước trà mỗi ngày.
Ung thư máu, viêm đại tràng: lấy từ 15 – 20g thân lá dừa cạn khô sao vàng, sắc, chia từ 2 – 3 lần uống trong ngày.
Mất ngủ: lấy 20g thân lá dừa cạn khô sao vàng, 12g lá vông nem, 12g hạt muồng sao đen, sắc uống trước khi đi ngủ.
Rong kinh: lấy từ 20 – 30g dừa cạn sao vàng (toàn cây có cả hoa và rễ), sắc lấy nước, uống liên tục từ 3 – 5 ngày.


Dừa cạn một cây thuốc quý chữa nhiều bệnh về nội khoa

 
Dừa cạn tên khoa học: Catharanthus roseus (L) G. Don; tên khác: Bông dừa, hoa hải đằng, trường xuân hoa. Họ trúc đào (Apocynaceae).
Dừa cạn loại cây thảo cao 50 – 80cm phân nhiều cành. Lá mọc đối, hình trái xoan, dài 3-8 cm, rộng 1 - 2,5cm, hoa mọc đơn độc ở kẻ các lá phía trên, màu hồng hay trắng. Đài 5 hợp thành ống ngắn. Tràng 5, hình đinh. Nhị 5 đình vào họng của ống tràng, chỉ nhĩ rất ngắn, bộ nhụy gồm lá noãn dính với nhau ở vòi, rời ở bầu. Quả gồm 2 đại, dài 2,5 -  3cm, hạt nhỏ hình trứng màu nâu nhạt hoặc nâu đen.
Mùa hoa và quả vào tháng 4 – 5 và 9 – 10.
  Cây dừa cạn ở ta có nguồn gốc Mađagatxca, loại mọc hoang mọc rải rác ở các vùng ven biển, hoặc ở những vùng trung du có độ đất ẩm pha cát. Dừa cạn sinh trưởng rất mạnh trong mùa hè, đến mùa đông rét lạnh lá có thể bị rụng hết. Nhưng ngược loại ở các tỉnh ven biển miền trung thì dừa cạn sinh trưởng được cả 4 mùa.
Ở nhiều vùng khu dân cư người ta còn dùng cây dừa cạn trồng trong bồn hoa cây cảnh ở trong vườn nhà, vì hoa dừa cạn có màu trắng và màu hồng. Hoa dừa cạn từ khi trồng cho đến 45 ngày sẽ ra hoa, khoảng 70 ngày sẽ có quả.
Bộ phận dùng: lá, rễ, và toàn thân của cây, thông thường người ta nhổ trọn cả bụi đem về phơi khô, chặt nhỏ khi dùng cho sao thơm có thể dùng đơn phương hoặc phối hợp nhiều loại cây khác; như trong đơn điều trị cao huyết áp mà chúng tôi đã sử dụng từ năm 1979 ở VQY 13 – QK 5. Nói đến dừa cạn trong cây thuốc của Việt Nam như là một cây thuốc rất quý dùng nhiều trong các bệnh về nội khoa mà đặc trưng ở 3 nhóm bệnh: Bệnh lý về nội tiết; Bệnh lý về tim mạch và Bệnh lý về máu.
Bởi vì trong dừa cạn có trên 10 ankaloit, rất phức tạp đã phát hiện có hơn 60 chất khác nhau, được phổ biến trong các loại ba gạc (cùng họ với cây Trúc đào) như: ajmalicin, tetrahydroalstonin, serpentin, lochnerin, akuammin, reserpin.
Trong tất cả các ankaloit, có loại vinblastin và vincritin là 2 chất có tác dụng tốt trong chữa các ung thư về máu, ajmalicin là thuốc điều trị tim mạch rất tốt cho rối loạn thần kinh tim.
Dừa cạn, trong nhân dân ta đã dùng để chữa các bệnh về nội tiết như đái tháo đường, thông tiểu, viêm đường tiết niệu, tiểu tiện có máu, ít nước tiểu và trong bế kinh. Rễ và lá dùng rất tốt trong hạ huyết áp, nếu cần ta cho thêm cây hoa đại (bông sứ), cỏ mần trầu và lá lạc tiên mỗi thứ khoản 20g sắc nước uống liên tục trong nhiều tháng liền đối với huyết áp cao ở giai đoạn 1 dù có nguyên nhân hay không có nguyên nhân vẫn rất tốt. Có nơi dùng cây dừa cạn khô 20g dạng sắc nước uống để chữa những khối u nhỏ trong cơ thể, thời gian qua ở nhiều cơ sở điều trị đã chiết xuất vinblastin và vincristin là thuốc lựa chọn thứ 1 trong điều trị ung thư biểu mô tinh hoàn, là thuốc chọn thứ 2 trong điều trị bệnh Hodgkin, ung thư nhau, ung thư biểu mô tế bào, có vảy ở đầu và cổ, ung thư biểu mô tế bào thận và còn là một trong những thuốc lựa chọn thứ 3 để điều trị u nguyên bào thần kinh, ung thư vú, ung thư vòm họng và ung thư dạng nấm da. Nó còn dùng để điều trị bệnh sacôm lympho, sacôm bạch huyết bào, bệnh sacôm chảy máu Kaposi, sacôm tế bào lưỡi. Đặc biệt nó không có sự kháng chéo giữa vinblastin với các loại thuốc chống ung thư khác.
Việc dùng cây dừa cạn đề điều trị một số bệnh nội khoa mà đa phần là những bệnh có nguy cơ tiến triển ngày càng nặng thêm, khi lâm sàng và cận lâm sàng đã có những đột biến rất xấu, buộc người bệnh phải dùng các thuốc tân dược ngoại, có thuộc đặc trị về những tác dụng phụ vô cùng nguy hiểm chưa nói đến giá thành rất cao đối với bệnh nhân nghèo hoàn toàn bất lực. Do đó việc tự theo dõi sức khỏe ở mỗi người khi đã có những phát hiện sớm, ban đầu có những chẩn đoán tin cậy, khi sức khỏe đang còn hồi phục tốt thì việc dùng các thuốc nam dược để điều trị, theo kinh nghiệm dân gian là việc làm vô cùng có lợi cho cả về những tác dụng phụ và kinh tế ở mỗi người nhất là đối với bệnh nhân nghèo.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, dừa cạn có thể hỗ trợ trị ung thư, chống sự phân chia tế bào, tỏ ra có hiệu quả đối với ung thư bạch huyết, ung thư ruột già. Theo Đông y, dừa cạn có tác dụng làm săn, chống viêm, hạ áp, được sử dụng để điều trị một số bệnh: viêm đại tràng,bệnh trĩ, khí hư bạch đới, tăng huyết áp, viêm nhiễm phần phụ, kinh bế, zona, phong ngứa, đái tháo đường, vàng da.
Dừa cạn còn có tên là bông dừa, hải đằng. Tên khoa học là Catharanthus Roseus (L.) G. – Don Apocynaceae. Là loại cây cỏ cao khoảng 40 – 60 cm. Lá hình trứng mọc đối, mặt trên của lá màu xanh đậm, mặt dưới xanh nhạt, gân lá màu trắng ngà chạy giữa chia phiến lá thành 2 phần bằng nhau. Thân mềm tẽ nhiều cành nên cây thường nghiêng về một phía. Hoa có 5 cánh màu phớt hồng hoặc màu trắng. Quả có 2 đại hơi choãi ra, thường tập trung ở phần ngọn. Cây có nguồn gốc ở Madagasca (châu Phi), được người Pháp đưa vào trồng ở Việt Nam để làm cây cảnh. Cây dễ trồng, phát triển nhanh nên ít lâu sau nó đã lan ra ở nhiều địa phương, nhất là ở các tỉnh đồng bằng và ven biển nước ta. Dáng cây đẹp, mềm mại, lá xanh mướt, hoa rực sáng, đấy là những nét đặc trưng tạo được sự hấp dẫn của loài cây này. Lá và phần ngọn của cây được dùng làm thuốc. Có thể để tươi giã đắp, phơi khô sắc uống hoặc chế biến thành dạng trà.
Trong dân gian người ta dùng lá giã nát đắp lên những vết  bỏng (chú ý chỉ đắp trong trường hợp không trợt da, bỏng nhẹ) làm mát da thịt, giảm đau, chống bội nhiễm.

 
-Một số bài thuốc có dừa cạn:
1.Điều trị zona:
Dừa cạn (sao vàng hạ thổ) 16gam, thổ linh 16gam, bạch linh 10gam, kinh giới 12gam, chi tử 10gam, nam tục đoạn 16gam, cam thảo đất 16gam, hạ khô thảo 16gam. Sắc uống ngày 1 thang, sắc ba lần, uống ba lần
2.Thuốc đắp:
Lá dừa cạn, lá cây hòe. Hai thứ lượng bằng nhau, giã nhỏ đắp lên các tổn thương, băng lại. Tác dụng: làm giảm đau nhức.
3.Điều trị khí hư bạch đới:
Dừa cạn 12gam, rễ cây bạch đồng nữ 16gam, biển đậu 16gam, đan sâm 16gam, cây chó đẻ 16gam, lá bạc sau 16gam. Sắc uống ngày 1 thang.
4.Trà dược cho bệnh nhân tăng huyết áp:
Dừa cạn 160gam, lá đinh lăng 180gam, hoa hòe 150gam, cỏ xước 160gam, đỗ trọng 120gam, chi tử 100gam, cam thảo đất 140gam. Các vị sao giòn tán vụn trộn đều, bảo quản trong hộp kín tránh ẩm. Ngày dùng 40gam. Hãm nước sôi vào ấm chuyên, sau 10 phút có thể dùng được. Uống thay trà trong ngày.
Công dụng: an thần hạ áp, làm bền vững thành mạch, êm dịu thần kinh, phòng chống và ngăn ngừa những tai biến có thể xảy ra
5.Phụ nữ bị bế kinh:
Đau bụng, có khi đau lăn lộn, mặt đỏ, bụng dưới căng đầy, tính tình cáu gắt.
Bài thuốc: dừa cạn (phơi khô) 16gam, nga truật 12gam, hồng hoa 10gam, tô mộc 20gam, chỉ xác 8gam, trạch lan 16gam, huyết đằng 16gam, hương phụ 12gma. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

6.Lỵ trực trùng:
Đi ngoài nhiều lần, bụng đau từng cơn, phân có chất nhầy, có máu mũi, sút cân nhanh.
-Bài thuốc: dừa cạn (sao vàng hạ thổ) 20gam, cỏ sữa 20gam, cỏ mực 20gam, chi tử 10gam, lá khổ sâm 20gam, hoàng liên 10gam, rau má 20gam, đinh lăng 20gam. Đổ 3 bát nước sắc lấy 1,5 bát, chia ba lần uống trong ngày.
7.Trị bệnh trĩ
:
Bệnh trĩ ,Búi trĩ sưng đau, tiết dịch, chảy máu tươi
-Bài thuốc: dùng hoa và lá dừa cạn, lá thầu dầu tía. Hai thứ giã nhỏ đắp tại chỗ băng lại. Đồng thời cho uống bài sau: dừa cạn (sao vàng) 20gam, cỏ mực 20gam, phòng sâm 16gam, hoàng kỳ 12g, đương quy 12g, bạch truật 16g, thăng ma 10g, sài hồ 10g, trần bì 10gam, cam thảo 12gam. Sắc ba lần uống ba lần, ngày 1 thang. Dùng thuốc 10 ngày liền. Nghỉ 3 – 4 ngày, sau đó tiếp đợt 2.
Khát nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, Đông y gọi là chứng tiêu khát.
-Bài thuốc: dừa cạn 16gam, cát căn 20gam, thạch hộc 12gam, hoài sơn 16gam, sơn thù 12gam, đan bì 10gam, khiếm thực 12gam, khởi tử 12gam, ngũ vị 10gam. Sắc ba lần uống ba lần, ngày 1 thang.
8.U xơ tuyến tiền liệt :
Dừa cạn 12gam, huyền sâm 12gam, xuyên sơn 10gam, chè khô 12gam, hoàng cung trinh nữ 5gam, cát căn 16gam, bối mẫu 10gam, đinh lăng 16gam. Sắc uống ngày 1 thang, chia ba lần.

 Cây dừa cạn, nguyên liệu chế tạo thuốc trị ung thư
 
 MÔ TẢ CÂY VÀ ÐỊA LÝ PHÂN BỐ
Cây dừa cạn, còn có tên là trường xuân hoa, là cây thảo sống lâu năm, hoa màu hồng, mọc riêng lẻ ở kẽ lá gần ngọn. Ở Việt Nam, dừa cạn là cây hoang dại, có vùng phân bố tự nhiên tương đối đặc trưng từ tỉnh Quảng Ninh đến Kiên Giang dọc theo vùng ven biển, tương đối tập trung ở các tỉnh miền Trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Ðà Nẵng, Bình Ðịnh và Phú Yên. Ở những vùng phân bố tự nhiên ven biển, dừa cạn có khi mọc gần như thuần loại trên các bãi cát dưới rừng phi lao, trảng cỏ cây bụi thấp, có khả năng chịu đựng điều kiện đất đai khô cằn của vùng cát ven biển. Dừa cạn còn được trồng khắp nơi trong nước để làm cảnh và làm thuốc.
Theo kinh nghiệm dân gian ở Việt Nam và Trung Quốc, có nơi dùng thân và lá phơi khô sắc uống để thông tiểu tiện, chữa bệnh đi tiểu đỏ, ít và làm thuốc điều kinh. Ở nam châu Phi, người dân dùng trị bệnh đái tháo đường. Có nơi dùng chữa tiêu hóa kém và lỵ.
TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
Các nhà khoa học đã nghiên cứu chiết xuất từ cây dừa cạn hai alkaloid Vinblastin và Vincristin, là những chất ức chế mạnh sự phân bào. Các alkaloid này liên kết đặc hiệu với Tubulin, là protein ống vi thể ở thoi phân bào, phong bế sự tạo thành các vi ống này và gây ngừng phân chia tế bào ở pha giữa. Ở nồng độ cao, thuốc diệt được tế bào, còn ở nồng độ thấp làm ngừng phân chia tế bào. Ngoài ra cao dừa cạn còn có tác dụng hạ huyết áp, ngăn cản sự phát triển của thai trên động vật mang thai và kháng một số chủng nấm gây bệnh.
CÔNG DỤNG TRỊ UNG THƯ CỦA ALKALOID DỪA CẠN
1. Vinblastin sulfat: Là thuốc dùng trong liệu pháp phối hợp, được lựa chọn hàng đầu để điều trị ung thư biểu mô tinh hoàn và được lựa chọn hàng thứ hai trong liệu pháp trị bệnh Hodgkin, ung thư nhau, ung thư biểu mô da đầu và ung thư biểu mô thận. Lựa chọn hàng thứ ba để điều trị u nguyên bào thần kinh, ung thư vú, ung thư cổ tử cung và ung thư dạng nấm da. Nó cũng được dùng chữa bệnh sarcom lympho, sarcom chảy máu Kaposi và sarcom tế bào lưới.
Các tác dụng không mong muốn như buồn nôn, nôn, nhức đầu và dị cảm xảy ra sau khoảng 4-6 giờ và kéo dài 2-3 giờ. Hiện tượng tiêu chảy, táo bón, tắc ruột, liệt, chán ăn và viêm miệng cũng có thể xảy ra và thường báo trước những tác dụng độc hại thần kinh. Tổn thương hệ thần kinh đôi khi có tính lâu dài khi dùng liều quá cao; đã xảy ra mù và tử vong. Chứng rụng tóc có tính hồi phục đã xảy ra ở khoảng 30-60% người dùng thuốc. Sự ức chế nhẹ tủy xương với giảm bạch cầu xảy ra ở tỷ lệ cao bệnh nhân, buộc phải ngưng dùng thuốc.
Thuốc có tác dụng độc hại tại chỗ. Cần tránh sự tràn thuốc ra ngoài khi tiêm tĩnh mạch, vì có thể gây viêm tĩnh mạch ở nơi tiêm. Vinblastin có thể gây độc cho thai, nên chỉ dùng ở thời kỳ mang thai nếu tình trạng bệnh đe dọa tính mạng hoặc bệnh nặng mà các thuốc an toàn hơn không có hiệu lực.
2. Vincristin sulfat: Là một trong những thuốc chống ung thư được dùng rộng rãi nhất, đặc biệt có ích đối với các bệnh ung thư máu, thường được dùng để làm thuyên giảm bệnh bạch cầu lympho cấp. Nó được dùng trong liệu pháp phối hợp thuốc, là lựa chọn hàng đầu để điều trị bệnh Hodgkin, u bạch huyết không - Hodgkin, ung thư biểu mô phổi, u Wilm, bạch cầu tủy bào mạn (đợt cấp tính), sarcom Ewing và sarcom cơ vân. Phối hợp thuốc chứa Vincristin là lựa chọn hàng thứ hai cho ung thư biểu mô vú, ung thư cổ tử cung, u nguyên bào thần kinh và bệnh bạch cầu lympho mạn tính.
Một số chuyên gia ưa dùng Vincristin chỉ để làm thuyên giảm và không dùng trong điều trị duy trì vì việc sử dụng kéo dài sẽ gây độc hại thần kinh. Sự kháng Vincristin có thể phát triển trong quá trình điều trị. Vincristin gây giảm bạch cầu nên phải đếm số lượng bạch cầu trước mỗi liều. Những tác dụng phụ thường bắt đầu với buồn nôn, nôn, táo bón, co cứng cơ bụng, sút cân và phục hồi nhanh. Thuốc cũng có thể gây những phản ứng chậm phục hồi như rụng tóc và bệnh thần kinh ngoại biên.
Những tai biến nặng về thần kinh có thể xảy ra như mất những phản xạ gân sâu, viêm đau thần kinh, tê các chi, nhức đầu, mất điều hòa. Những khuyết tật thị giác, liệt nhẹ hoặc bại liệt và teo một số cơ duỗi có thể xảy ra chậm. Liệt những dây thần kinh sọ 2, 3, 6 và 7 cũng có thể xảy ra. Các tai biến thần kinh có thể kéo dài trong nhiều tháng. Thuốc gây độc tại chỗ, cần tránh sự tràn thuốc ra ngoài, tốt nhất nên cho dùng thuốc bằng cách tiêm truyền tĩnh mạch. Phần lớn thuốc được thải trừ trong mật và một phần ít hơn trong nước tiểu. Trong bệnh vàng da tắc mật, độc tính của Vincristin lớn hơn và cần phải giảm liều. Vincristin thải trừ chậm nên có nguy cơ tích lũy, do đó ít nhất một tuần mới được dùng một lần.
Vincristin gây độc hại cho thai. Ðối với phụ nữ còn khả năng sinh đẻ, cần dùng các biện pháp tránh thai. Phụ nữ đang điều trị với Vinblastin hoặc Vincristin không được cho con bú.

Thuốc chữa ung thư từ cây dừa cạn
Cây dừa cạn là một loại cây có hoa đẹp thường mọc rất nhiều ở các thửa ruộng đất pha cát và được trồng làm cảnh. Loại cây này có những đặc tính sinh học quý báu, dùng để chế ra một số thuốc chữa ung thư, căn bệnh đáng sợ của thời đại công nghiệp.
Cây rau dừa,có tên gọi phổ biến là cây dừa cạn. Nhưng nó còn có một số tên khác tuỳ theo từng địa phương như cây hoa trường xuân, cây tứ thời hoa do nó ra hoa hầu như quanh năm. Cũng có nơi còn gọi dừa cạn là cây sừng dê (dương giác), cây bông dừa , cây nhật tân, cây hoa hải đăng…Tên khoa học của nó là Vincarosealin hay Catharanthus Roseus (L.) G.Don thuộc họ trúc đào (Apocynaceae) . Cây dừa cạn có nguồn gốc xuất xứ ở đảo Madagascar thuộc châu Phi nhưng được trồng ở nước ta rất nhiều để làm cảnh và làm thuốc. Khi đi tham quan tượng đài Bác Hồ ở thành phố Vinh ( Nghệ An), tôi thấy người ta trồng cả một vườn cây dừa cạn nở hoa đỏ rất đẹp làm nền cho quảng trường Hồ Chí Minh rực rỡ và sinh động hẳn lên.

Trong nhân dân, từ lâu đã biết dùng cây dừa cạn làm thuốc. Hồi nhỏ tôi đã thấy nhà bác hàng xóm có cháu nhỏ bị bỏng nước sôi, trước nhà có mấy khóm dừa cạn trồng làm cảnh, bác hái lá dừa cạn tươi giã nát trộn với chút bột gạo đắp lên vết bỏng. Cháu bé đỡ kêu khóc vì hết bỏng rát, mấy ngày sau đã khô vết thương. Ông chú họ tôi bị bệnh tiểu đường thì thường xuyên uống nước sắc của thân lá cây dừa cạn phơi khô, sao vàng, kiểm tra đường huyết cũng đỡ tăng nhiều.

Trong dân gian còn có nhiều bài thuốc dùng cây dừa cạn chữa viêm đại tràng, chữa tăng huyết áp bằng cách sắc nước uống. Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu, phân tích những chất có trong cây dừa cạn và thấy rằng sở dĩ nó có những tác dụng chữa bệnh như dân gian lưu truyền là do một số chất hoá học có nhiều trong thân, rễ và lá như acid pyrocatechic, acid ursolic và đặc biệt là các alkaloid có nhân indol.

Năm 1958, Noble và cộng sự đã chiết được một alkaloid từ lá dừa cạn là Vincaleucoblastine ( còn gọi là Vinblastin). Sau đó 4 năm, Svoboda và cộng sự cũng tìm thêm một alkaloid nữa là Vincaleucocristin (còn gọi là vincristin). Hàm lượng các alkaloid này trong dừa cạn rất nhỏ (khoảng 1 phần vạn trong lá dừa cạn khô đối với Vinblastin còn đối với Vincristin thì ít hơn 10 lần nữa ). Người ta thường dùng hai alkaloid này làm thuốc chữa ung thư dưới dạng muối sulfat. Quá trình điều chế hai alkaloid này từ  cây dừa cạn qua khá nhiều công đoạn với giá thành cao nên thuốc khá đắt.  Hiện nay người ta đã tìm cách sinh tổng hợp hoặc bán tổng hợp hai loại alkaloid trên để giảm giá thành của thuốc.

Nhân dân ta đã có bài thuốc chữa bạch cầu cấp ( bệnh máu trắng) bằng cách sắc uống thân và lá cây dừa cạn ( khoảng 15 gam thân lá khô/ngày). Trên thị trường, thuốc Vinblastin ( còn có tên Velban) là thành phẩm độc bảng A thường đóng ống 5-10 mg chế phẩm đông khô kèm theo 1 ống dung môi. Vinblastin có tác dụng ức chế sự sinh sản của các tế bào ung thư, ít ảnh hưởng đến hồng cầu và tiểu cầu.

Vincristin ( Oncvin) có tác dụng tương tự như Viblastin nhưng mạnh hơn nên dùng với liều thấp hơn. Cả hai loại thuốc này đều được dùng để tiêm mạch máu nên phải rất thận trọng khi tính liều để tiêm thuốc. Trong quá trình dùng thuốc phải theo dõi số lượng bạch cầu. Nếu số lượng bạch cầu giảm xuống dưới 2000 thì phải giảm liều thuốc xuống một nửa. Hai loại thuốc này hiện nay vẫn được coi là thuốc tốt nhất để điều trị ung thư máu. Thuốc được bảo quản trong lọ kín, tránh ánh sáng và ở nhiệt độ thấp (trong tủ lạnh).

Cây dừa cạn thật là đáng quý, vừa là cây cảnh đẹp, vừa là cây thuốc hay. Các bệnh nhân nghèo cần sử dụng những tên thuốc tây kể trên, nếu dùng nước sắc của cây dừa cạn phơI khô thường xuyên cũng đỡ tiền nhiều lắm./.



Tác dụng của cây cỏ sữa nhỏ
Tác dụng chữa bệnh của cây ba kích
Tác dụng của cây hoàn ngọc
Tác dụng chữa bệnh của bắp cải
Tác dụng chữa bệnh của cây chuối hột
Tác dụng chữa bệnh của âm nhạc


(st)




cho em hỏi cách sử dụng cây dừa cạn trong việc chữa trị bệnh tiểu đường.
hơn 1 tháng trước - Thích
Theo lương y Huyên Thảo, liều dùng hàng ngày khi áp dụng dừa cạn chữa huyết áp, tiểu đường là: 10-16g sắc nước uống. Bạn tham khảo nhé!
hơn 1 tháng trước - Thích (6)
Cho em hoi cach su dung chua benh ung thu vu cua cay dua can
hơn 1 tháng trước - Thích
Cho e hoi cách sử dụng cay dưa cạn trong viec chữa trị benh u sơ tử cung va u vú
hơn 1 tháng trước - Thích
Cay dua can co chua benh ung thu vu k
hơn 1 tháng trước - Thích
Cho em hỏi cách chữa sỏi thận bằng cây cỏ dừa
hơn 1 tháng trước - Thích
anh trai em năm nay 30 tuổi vừa bị tiểu đường type 2 vừa bị men gan cao thì nên dùng loại thảo dược nào và bài thuốc cụ thể thế nào ạ. Em cảm ơn nhiều.
hơn 1 tháng trước - Thích
Gửi hỏi đáp - bình luận