Tác dụng chữa bệnh của cây nhàu

Khác với những lời quảng cáo phóng đại và cường điệu về công dụng của sản phẩm NONI JUICE tinh chế từ trái Nhàu, y học cổ truyền thường chỉ sử dụng bộ phận rễ từ cây Nhàu như một vị thuốc an thần hoặc thông kinh hoạt huyết. Ngoài ra rễ Nhàu hoặc trái Nhàu không có tác dụng tiêu viêm, tiêu độc, bổ khí hoặc bổ huyết.


Từ lâu nhân dân ta cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới như Campuchia, Philippin, Ấn độ . . . đã biết sử dụng một số bộ phận cây Nhàu để làm thuốc. Do hiệu quả của nó, dần dần các nhà khoa học cũng đã quan tâm nghiên cứu. Năm 1848 Ông Anderson, một nhà khoa học người Pháp đã tách ra được từ rễ Nhàu chất Moridin có công thức tổng quát C28H30O15 và chất Moridon có công thức C15H10O5. Tiếp theo nhiều người khác như ông Perkin và Hummel năm 1894, ông Simonson năm 1920, ông Briggs năm 1948 cũng đã tiếp tục những công trình nầy.

Tai Việt Nam, Nhàu rừng là một trong số 300 vị thuốc Nam được Lương y Nguyễn an Cư (1877-1949) một thầy thuốc nỗi tiếng của Nam Bộ trước Cách Mạng Tháng Tám khuyến khích sử dụng xen kẻ với thuốc Bắc để tiết kiệm cho người bệnh. Nhàu rừng và Rễ Nhàu cũng là hai trong số 208 vị thuốc Nam được Lương y Viêt Cúc ghi lại trong "Nam dược tính yếu lược" (1965). Đặc biệt từ năm 1952 bác sĩ Đặng văn Hồ, nguyên là giám đốc Bệnh viện Lao Ngô Quyền và các cộng sự của ông đã tiến hành hàng chục năm liền nghiên cứu tác dụng của rễ Nhàu trên các bệnh nhân. Công trình nầy sau đó đã được tổng kết và công bố vào năm 1973. Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, nhà nghiên cứu nỗi tiếng về "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" cũng đã đề cặp đến cây Nhàu và xếp vị thuốc nầy vào danh mục những vị thuốc về huyết áp. Hiện nay nhiều xí nghiệp Dược trong nước cũng đã sản xuất thuốc viên và thuôc nước chiết xuất từ Nhàu. Như vậy có thể nói cây Nhàu đã được nghiên cứu và sử dụng trong y học cổ truyền cũng như trong y học hiện đại từ lâu.

MÔ TẢ

Cây Nhàu thuộc họ cây cà phê, có tên là Morinda Citrifolia L. thường mọc ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Ở nước ta Nhàu mọc nhiều ở những vùng ẩm thấp dọc theo bờ sông bờ suối, ao hồ hoặc mương rạch ở khắp các tỉnh miền Nam và một số tỉnh miền Trung. Cây Nhàu có thể cao từ 6m đến 8m, lá mọc đối, hình bầu dục, đầu nhọn, dài từ 12cm đến 15cm rộng từ 6cm đến 8cm. Trái Nhàu hình tròn hoặc hình bầu dục, có từng múi nhỏ. Trái lúc còn non màu xanh lợt, da láng; khi trái chín da chuyển sang màu đen, vị cay, nồng, khó ngửi. Vì mùi vị khó chịu nên Đông y thường chỉ sử dụng rế Nhàu hoặc thân cây Nhàu thái mỏng để làm thuốc. Rễ Nhàu bào ra có màu vàng sậm như màu nghệ, cây Nhàu bào ra có màu vàng lợt hơn..

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ:

Nhân dân ta nhiều nơi đã có truyền thống dùng rễ Nhàu đã được thái mỏng phơi khô sắc uống để trị đau lưng, phong thấp. Nhiều người cũng dùng trái Nhàu chín chấm muối ăn với cùng công dụng. Phụ nữ một số vùng còn ăn trái Nhàu chín để làm nhuận trường, họat huyết hoặc điều hòa kinh nguyệt.

Sau nầy khi phân tích dược tính của rễ Nhàu, giáo sư Caujolle, Giám đốc Trung Tâm khảo cứu Quốc gia Pháp về độc tính của các chất; G.S. Youngken thuộc Trường Đại Học Dược khoa Massachusette; G.S. Ikeda thuộc Trung Tâm Nghiên cứu vệ sinh quốc gia của Nhật Bản . . . đã thí nghiệm trên vật nuôi của phòng thí nghiệm và nhận thấy tinh chất rễ Nhàu (Extrait des racines de Morinda Citrifolia) có dược tính sau:

-Có tác dụng nhuận trường nhẹ và lợi tiểu nhẹ.

-Làm êm dịu thần kinh.

-Hạ huyết áp kéo dài.

-Râït ít độc và không làm nghiện.

Sách "Gia y trị nghiệm" của Lương y Việt Cúc có ghi "rễ Nhàu vị đắng, ấm, thông huyết mạch, trừ phong tê nhức mỏi, hạ huyết áp."

Trên thực tế, qua kinh nghiệm sử dụng riêng của tác giả hoặc dùng độc vị hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, rễ Nhàu có 2 tác dụng đáng lưu ý: dưỡng tâm an thần thông kinh họat huyết

Những người thường hay bị căng thẳng, tâm lý dễ bưcû bội, cáu gắt, khó ngủ, khi dùng rễ Nhàu có thể cảm thấy thần kinh được êm dịu, thư giãn, dễ ngủ. Ngược lại một số bịnh nhân bình thường hay lo sợ vu vơ, buồn bực, than vãn thì nước sắc rễ Nhàu có thể làm cho họ cảm thấy tươi tỉnh lạc quan hơn. Tác dụng tự điều chỉnh giữa hưng phấn và ức chế, giữa thần kinh giao cảm và đối giao cảm cũng đã được nhóm nghiên cứu của bác sĩ Đặng văn Hồ ghi nhận: "Dựa theo sự quan sát trực tiếp trên người bệnh, chúng tôi nhận thấy thuốc ấy (nước sắc rễ Nhàu) tạo nên một sự thoaøi mái rất đặc biệt, niềm vui, sự lạc quan, sự minh mẫn trong suy luận và cải thiện tánh tình người bệnh."

Tính chất điều hòa thần kinh còn thấy thể hiện ở hiệu quả của việc điều hòa huyết áp, Thuốc sẽ làm hạ huyết áp ở những người huyết áp cao hoặc nâng lên ở những người huyết áp thấp. "Trong một số trường hợp sức khoẻ quá kém vì áp huyêt thường xuyên quá thấp, chúng tôi cũng cho bệnh nhân dùng thuốc rễ nhàu và một mình thuốc ấy đã gia tăng áp huyết của họ lên 2 hoặc 3 chỉ số".

Ngòai tác dụng ổn định áp huyết qua cơ chế thần kinh, tác dụng thông kinh hoạt huyết cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc cải thiện tuần hòan huyết nên rễ Nhàu vẫn đang là một vị thuốc Nam thông dụng được dùng phối hợp với những vị thuốc khác để chữa trị các chứng cao huyết áp do bất kỳ nguyên nhân nào.

Y học ngày nay đã biết được rất rõ là khi thần kinh con người bị căng thẳng thì trương lực cơ bắp gia tăng, họat động nội tạng bị rối lọan, huyết áp tăng, lượng bạch cầu giảm . . . Trong điều kiện như vậy, tất cả các biện pháp hoặc các dược chất làm ổn định định được thần kinh - trong đó có rễ Nhàu hoặc trái Nhàu- đều có khả năng giúp cải thiện tình hình. Tuy nhiên đối với các bệnh có tổn thương thực thể hoặc các chứng viêm nhiểm, nhất thiết phải cần các vị thuốc hoặc các phương pháp đặc trị mà rễ Nhàu không thể thay thế được. Ngòai ra rễ Nhàu cũng không thể thay thế được các vị thuốc có tác dụng bổ khí hoặc bổ huyết, bổ âm hoặc bổ dương của y học cổ truyền.




Cây Nhàu có tên khoa học Morinda citrifolia, thuộc họ cà phê. Ở nước ta, Nhàu mọc nhiều ở những vùng ẩm thấp dọc theo bờ sông, suối, ao hồ hoặc mương rạch khắp các tỉnh miền nam và một số tỉnh miền Trung.


Cây Nhàu có thể cao từ 6-8m, lá mọc đối, hình bầu dục, đầu nhọn dài từ 12 – 15cm, rộng 6 – 8cm. Trái nhàu hình tròn hoạc bầu dục, có từng múi nhỏ. Trái lúc còn non màu xanh lợt,  khi chín có màu trắng hoặc hồng, vị cay nồng, khó ngửi. Vì mùi vị khó chịu nên Đông y thường chỉ sử dụng rễ Nhàu hoặc thân cây Nhàu thái mỏng để làm thuốc. Rễ Nhàu bào ra có màu vàng sậm như màu nghệ, cây nhàu bào ra có màu vàng lợt hơn. Nhàu thường được nhân dân dùng chữa bệnh đái tháo đường, cao huyết áp, thấp khớp, hen suyễn, suy nhược thần kinh…

Theo nghiên cứu của y học hiện đại, quả Nhàu có chứa prosertonin nhiều gấp 40 lần so với quả Dứa. Khi chất này kết hợp với một enzym nội bào sinh ra xeronin có khả năng giúp tế bào tự sửa chữa và tái tạo.

Nhân dân ta nhiều nơi đã có truyền thống dùng rễ Nhàu thái mỏng phơi khô sắc uống để trị đau lưng, phong thấp. Nhiều người cũng dùng trái Nhàu chín chấm muối ăn với cùng công dụng. Phụ nữ một số vùng còn ăn trái Nhàu chín để nhuận trường, hoạt huyết hoặc điều hòa kinh nguyệt.

Giáo sư Caujolle – Giám đốc Trung tâm khảo cứu Quốc gia Pháp về độc tính của các chất, Giáo sư Youngken thuộc trường địa học Dược khoa Massachusette và Giáo sư Ikeda thuộc trung tâm nghiên cứu vệ sinh Quốc gia Nhật Bản… đã thí nghiệm trên vật nuôi và nhận thấy tinh chất rễ Nhàu (Extrait des raciness de Morinda Citrifolia) có tác dụng nhuận trường nhẹ và lợi tiểu nhẹ, làm êm dịu thần kinh, hạ huyết áp kéo dài, ít gây độc và không gây nghiện.

Sách “Gia y trị nghiệm” của lương y Việt Cúc có ghi “rễ Nhàu vị đắng, ấm, thông huyết mạch, trừ phong tê nhức mỏi, hạ huyết áp”. Trên thực tế, khi dùng độc vị hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, rễ Nhàu có hai tác dụng đáng lưu ý là dưỡng tâm an thần và thông kinh hoạt huyết.

Những người thường hay căng thẳng tâm lý, dễ bực bội, cáu gắt, khó ngủ, khi dùng rễ Nhàu có thể cảm thấy tinh thần được êm dịu, thư giãn dễ ngủ. Ngược lại, một số bệnh nhân bình thường hay lo sợ vu vơ, buồn bực, than vãn thì sắc rễ Nhàu uống, có thể làm cho họ cảm thấy tươi tỉnh lạc quan hơn. 


Tác dụng tự điều chỉnh giữa hưng phấn và ức chế, giữa thần kinh giao cảm và đối giao cảm cũng đã được nhóm nghiên cứu của bác sĩ Đặng Văn Hồ ghi nhận: "Dựa theo sự quan sát trực tiếp trên người bệnh, chúng tôi nhận thấy thuốc ấy ( nước sắc rễ Nhàu) tạo nên một sự thoải mái rất đặc biệt, niềm vui, sự lạc quan, sự minh mẫn trong suy luận và cải thiện tính tình người bệnh. Tính chất điều hòa thần kinh còn thể hiện ở hiệu quả của việc điều hòa huyết áp, thuốc sẽ làm hạ huyết áp ở những người huyết áp cao hoặc nâng huyết áp ở những người huyết áp thấp. Trong một số trường hợp sức khỏe kém vì huyết áp thường xuyên quá thấp, chúng tôi cũng cho bệnh nhân dùng thuốc rễ Nhàu và chỉ thuốc ấy thôi đã gia tăng huyết áp của họ lên 2 hoặc 3 chỉ số".

Các dẫn chất anthraquinon ( damnacathal, nordamnacathal…) là một trong những hoạt chất chính của cây Nhàu, có tỷ lệ cao trong rễ nhàu. Năm 1994, TS. Phạm Huy Quyết nghiên cứu tác dụng kích thích miễn dịch chiết toàn phần rễ cây Nhàu có tác dụng hạ huyết áp, giảm đau, an thần.

Ngoài tác dụng ổn định huyết áp qua cơ chế thần kinh, tác dụng thông kinh hoạt huyết cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc cải thiện tuần hoàn huyết mạch nên rễ Nhàu vẫn đang là vị thuốc Nam thông dụng, được dùng phối hợp với những vị thuốc khác để
chữa trị các chứng cao huyết áp do bất kỳ nguyên nhân nào.



Tác dụng chữa bệnh của cây Nhàu


Cây nhàu cao chừng 4 – 7m, thân nhẵn, có nhiều cành to, lá mọc đối hình bầu dục, nhọn ở đầu, dài 12 – 15 cm. Hoa nở vào tháng 1 – 2, quả chín vào tháng 7 – 8. Quả hình trứng có da sần sùi, dài chừng 5 – 6 cm, khi non có màu xanh nhạt, khi chín có màu mỡ gà, mùi nồng và cay. Ruột quả có một lớp cơm mềm ăn được, chính giữa có một nhân cứng. Bộ phận dùng làm thuốc gồm: Quả, rễ, lá, hạt cây nhàu

Theo đông y, quả nhàu có tác dụng nhuận tràng làm thuốc điều kinh, trị băng huyết, bạch đới, ho cảm, hen, thũng, đau gân, đái đường, chữa lỵ, hỗ trợ hệ miễn dịch, chống viêm; rễ nhàu có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, làm êm dịu thần kinh, giảm đau nhức, hạ huyết áp, nhuận tràng và lợi tiểu; lá nhàu có tác dụng làm tăng lực, hạ sốt, điều hòa kinh nguyệt (giã nát đắp chữa mụn nhọt, mau lên da non hoặc sắc uống chữa đi lỵ, chữa sốt và làm thuốc bổ); vỏ cây nhàu dùng nấu nước cho phụ nữ sau khi sanh uống bổ máu.

Sau đây là tác dụng của cây nhàu:

- Chữa huyết áp cao: Rễ nhàu thái nhỏ phơi khô, mỗi lần 30 - 40g nấu đậm uống thay nước cả ngày. Sau một đợt uống từ 10 - 15 ngày, kiểm tra lại, nếu huyết áp giảm, bớt lượng rễ nhàu từ từ và uống liên tục trên 2 tháng, huyết áp sẽ ổn định.

- Chữa lỵ, tiêu chảy, cảm sốt: Lá nhàu tươi 3-5 lá tươi rửa sạch nấu với nửa lít nước còn 200ml chia 2 lần uống/ngày. Uống liên tục 3-5 ngày.


- Chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh, huyết áp cao: Rễ nhàu 24g, Thảo quyết minh (sao thơm) 12g, rau má 8g, Thổ phục linh 8g, vỏ bưởi 6g, gừng củ 3 lát. Đổ nửa lít nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày (uống nóng).

- Chữa rối loạn kinh nguyệt ở người cao huyết áp: Quả nhàu 20g, Ích mẫu 20g, Hương phụ (củ gấu) tẩm dấm sao 12g, Cam thảo dây 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần uống trong ngày.

- Chữa đau lưng, nhức mỏi chân tay: Quả nhàu già xắt lát mỏng 200g, ngâm với 2 lít rượu. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 20 – 30ml.

- Chữa đau lưng do thận: Rễ nhàu 12g, rau ngót 8g, cối xay 8g, dây gùi 8g, ngó bần 8g, đậu săng 8g, tầm gửi cây dâu 8g, rễ ngà voi 8g, ngũ trảo 12g. Đổ nửa lít nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong 1 ngày (uống nóng).

- Chữa táo bón ở người cao huyết áp: Ăn quả nhàu với chút muối.

- Chữa đau nhức do phong thấp: Rễ cây nhàu 20g, dây đau xương 20g, củ Khúc khắc (Thổ phục linh) 20g, rễ cỏ xước 20g, cam thảo dây 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần uống trong ngày.

Trong dân gian thường lấy quả nhàu gần chín rửa sạch, để ráo, xắt lát, trộn theo tỷ lệ 1kg nhàu với 2 lạng đường cát, sau 15 ngày ép lấy nước uống dần, mỗi bữa ăn chừng hai ly nhỏ, có tác dụng: Bồi bổ sức khỏe, điều hòa huyết áp, tăng cường khả năng miễn dịch, phục hồi các tế bào bị thương tổn suy yếu, chống viêm nhiễm, giảm đau nhức mệt mỏi cơ thể…

Lá nhàu non nấu canh với lươn, thịt bò bồi bổ cho người vừa lành bệnh, người bị suy nhược cơ thể rất hiệu quả, nhanh hồi phục sức khỏe.

*Chữa nhức đầu kinh niên, đau nữa đầu:

-Rễ Nhàu 24g -Muồng trâu 12g

-Cối xay 12g -Rau má 12g

-Củ gấu (sao, tẩm đồng tiện) 08g

Đổ 500ml nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng.

*Chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh, huyết áp cao:

-Rễ Nhàu 24g -Thảo quyết minh (sao thơm) 12g

-Rau má 08g -Thổ phục linh 08g

-Võ bưởi 06g -Gừng sống 03lát

Đổ 500ml nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng.

*Chữa đau lưng do thận suy, phong hàn thấp xâm nhiểm:

-Rễ Nhàu 12g -Bù ngót 08g

-Cối xay 08g -Dây gùi 08g

-Ngó bần 08g -Đậu săn 08g

-Tầm gửi cây dâu 08g -Rễ ngà voi 08g

-Ngủ trảo 12g

Đổ 500ml nước, sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng.

*Chữa nhức mỏi, tê bại do phong thấp:

-Rễ Nhàu 40g -Nghệ xanh 20g

-Nghệ vàng 20g -Trái ô-môi 10g

-Thiên niên kiện 20g -Võ quýt 20g

-Quế chi 20g -Đỗ trọng 30g

-Vòi voi 40g -Chùm gửi cây dâu 20g

-Rượu nếp 02lít -Đường cát trắng 500g

Ngâm tất cả thuốc vào 2 lít rượu nếp trong 7 ngày. Lọc kỹ bỏ xác. Pha rượu đã lọc với 1 lít nước đường. Mỗi lần uống một ly nhỏ cở 30ml đến 40ml. Ngày uống 2 lần. (Toa thuốc nầy ngòai rượu còn có một số thuốc có tính nhiệt khác như quế chi, võ quýt, thiên niên kiện nên những người thể tạng nhiệt, hay táo bón, áp huyết cao hoặc đang có các chứng viêm nhiểm không nên dùng)


Đau lưng, nhức mỏi tay chân, cao huyết áp, nhức đầu, chóng mặt là những bệnh thường gặp ở những người lứa tuổi về chiều. Tuần san SGGP Thứ Bảy xin giới thiệu với bạn đọc loại dược thảo có nhiều trong thiên nhiên, có tác dụng phòng và chữa các bệnh trên mà tốn ít công, ít của.

Toàn bộ làm thuốc

Trái nhàu tươi trên cây.

Trái nhàu, cây nhàu không lạ đối với nhiều người ở các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ vì đây là loại cây thường mọc ở những nơi ẩm thấp, dọc bờ sông, bờ suối, cho trái quanh năm. 

GS-TS Đỗ Tất Lợi, một trong những nhà dược học có uy tín nhất ở Việt Nam, đã bỏ nhiều công sức khi biên soạn cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, trong đó ông đã dành 2 trang sách nêu cái hay của toàn bộ cây nhàu (lá, trái, vỏ, rễ). 

Nhàu phơi khô hay dùng tươi đều là vị thuốc chữa các bệnh cao huyết áp, nhuận tràng, băng huyết, nhức mỏi, đau lưng, tiểu đường, mụn nhọt. Rễ cây nhàu xắt nhỏ, phơi khô, nấu nước uống hàng ngày (30g đến 40g) thay nước trà trong vài tháng liền sẽ chữa được bệnh cao huyết áp; nếu đem ngâm rượu, sau một vài tháng lấy ra mỗi ngày uống một vài ly nhỏ sẽ chữa được bệnh nhức mỏi. 

Trái nhàu tươi cũng có thể xắt nhỏ, phơi khô, sao vàng ngâm với rượu thay cho rễ nhàu. Nhiều người còn dùng trái nhàu tươi ủ với một ít đường, để hai tuần cho ra nước, uống mỗi ngày một ly nhỏ sẽ chữa được bệnh đau nhức các khớp tay, khớp chân và bệnh đường ruột. Quả nhàu nướng chín có công dụng chữa được bệnh lỵ. Còn lá nhàu tươi, nếu dùng từ độ 8g đến 10g nấu với 1/2 lít nước uống làm 2 lần trong ngày sẽ chữa được chứng nhức đầu, chóng mặt.

Theo sách 250 cây thuốc thông dụng của Giáo sư Võ Văn Chi thì trái nhàu có tác dụng dược lý làm hạ huyết áp, êm dịu thần kinh, lợi tiểu, nhuận tràng và chữa được bệnh tiểu đường. Thầy thuốc ưu tú, bác sĩ Nguyễn Tuấn Vinh trong cuốn sách Dùng cây thuốc do nhà Xuất bản Y học và nhà Xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 2005, dẫn chứng nghiên cứu của các nhà khoa học xác định trong quả nhàu có chứa nhiều chất prosertonin, một chất dinh dưỡng, nhiều gấp 40 lần so với trong trái dứa. 

Khi chất này kết hợp với một enzym nội bào sinh ra xeronin có khả năng giúp tế bào tự sửa chữa và tái tạo nên ngoài công hiệu chữa đau lưng, nhức mỏi tay chân, táo bón, hạ huyết áp ra, nếu uống thường xuyên phụ nữ còn tránh được mối nguy rối loạn kinh nguyệt hoặc dùng 20g vỏ cây nhàu (đã sao khô) nấu nước cho phụ nữ mới sinh uống sẽ chữa được bệnh thiếu máu. Bài thuốc này đã được áp dụng tại các tuyến y tế cơ sở trong và ngoài quân đội. Điều đáng nói là các bài viết đều có câu kết luận là ở loại trái này




Cây chó đẻ có tác dụng chữa bệnh gì?
Tác dụng chữa bệnh của cây cối xay
Tác dụng chữa bệnh của cây mật nhân
Tác dụng chữa bệnh của cây cà gai leo
Tác dụng chữa bệnh của cây đinh lăng
Tác dụng chữa bệnh của cây nhọ nồi


(st)