Tác dụng của cây hoàn ngọc: trị viêm loét dạ dày

Vào những năm 1990, trong dân gian có lẽ chưa có một cây thuốc nào mà lại được người dân cho là một loại “thần dược” chữa được bách bệnh như cây Hoàn ngọc. Chỗ nào người ta cũng nói đến Hoàn ngọc, bệnh gì người ta cũng chữa bằng Hoàn ngọc và nhà nào cũng trồng Hoàn ngọc. Lời đồn đại cho rằng sở dĩ cây có tên là "Hoàn ngọc" vì có một chú bé chơi đùa bị chúng bạn đá vào vùng "của quý", hòn "Ngọc hành" bị biến mất, sau nhờ dùng cây thuốc "Con khỉ" mà Ngọc hành lại trở về như cũ. Từ đó, cây Con khỉ được mang tên mới: Cây Hoàn ngọc.



1. Đại cương 

- Tên gọi: Cây Hoàn ngọc còn có tên là cây “Xuân hoa”, cây “Nhật nguyệt”, cây “Tu lình”, cây "Con khỉ", cây  “Thần dưỡng sinh”, cây “Trạc mã”, cây “Thần tượng linh”, cây “Mặt quỷ” và nhiều tên khác nữa, có tên khoa học là Pseuderanthemum (Nees) Radlk., thuộc họ Ô Rô (Acanthaceae). 

- Mô tả: Đây là loại cây bụi, sống nhiều năm, cao 1-2 m, thân non màu xanh lục, phân nhiều cành mảnh, phần gốc hóa gỗ màu nâu. Lá mọc đối, hình mũi mác, dài 12 – 17cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mép nguyên. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, thành xim dài 10 – 16cm; hoa lưỡng tính, màu trắng pha tím, đài 5 lá rời nhau, tràng hợp có ống hẹp và dài; bao phấn màu tím, bầu thượng, nhẵn, 2 ô. Quả nang, chứa 4 hạt.

- Thành phần hóa học: Theo sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam của nhóm tác giả Đỗ Huy Bích... Trần Toàn - Viện Dược liệu, do NXB Khoa học kỹ thuật ấn hành năm 2006 thì, cây Hoàn ngọc chứa sterol, flavonoid, đường khử, carotenoid, acid hữu cơ, 7 chất đã được phân lập, trong đó 4 chất là Phytol, β-sitosterol, hỗn hợp đồng phân Epimer của Stigmasterol và Poriferasterol. Lá tươi chứa diệp lục toàn phần 2,65mg/g, protein hòa tan 25,5mg/g, polysaccharid hòa tan 0,80%, và các chất: Ca 875,5mg%, Mg 837,6mg%, K 587,5mg%, Na 162,7mg%, Fe 38,75mg%, Al 37,5mg%, V 3,75mg %, Cu 0,43mg%, Mn 0,34mg%, Ni 0,19mg%. Lá có enzym với hoạt tính cao ở pH 7,5, nhiệt độ 70oC.

- Tác dụng dược lý: Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy cây Hoàn ngọc có các tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm; có hoạt tính thủy phân protein (nên trong lâm sàng đắp lá tươi Hoàn ngọc làm tiêu mủ và làm tan sẹo lồi); tác dụng ức chế Monoaminoacydase (MAO) và tác dụng bảo vệ gan. Cây không có độc tính.

2. Bộ phận dùng 

- Lá cây: Dùng tươi (thông dụng nhất) hoặc phơi (trong râm) hay sấy khô.
- Vỏ thân, vỏ rễ, cành cây.
- Toàn cây tươi giã nát hoặc phơi (trong râm) hay sấy khô.
- Rễ cây: thường phải là cây có từ 7 năm tuổi trở lên mới tốt.

3. Công dụng và liều dùng: 

Cây Hoàn ngọc không độc, có thể uống trong hay đắp ngoài, dùng tươi hay dùng khô đều được, nhưng dùng tươi tác dụng tốt hơn. Nếu dùng tươi phải nhai chậm để thuốc kết hợp với nước bọt mới phát huy tối đa tác dụng của thuốc.

3.1. Theo sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, cây Hoàn ngọc dùng để chữa các bệnh sau đây:

- Chữa viêm nhiễm đường tiêu hóa: Rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày, tá tràng, trĩ nội...: Nhai mỗi lần 7 – 9 lá tươi, ngày 2-3 lần, dùng liền 5 – 7 ngày.

- Cầm máu: Chữa xuất huyết đường tiêu hóa, chấn thương chảy máu, làm tan máu tụ do chấn thương, trĩ nội, trĩ ngoại ra máu, ho ra máu... Nhai mỗi lần 7 – 9 lá tươi, hay sắc 10g lá khô, uống như nước chè, dùng liền 5 – 7 ngày.

- Chữa lở loét: Lá tươi rửa sạch, liều lượng tùy theo vết thương, cho thêm một dúm muối, giã nát, đắp vào vết thương sẽ làm tiêu mủ, giảm sưng, vết thương mau liền, chóng lên sẹo.

- Chữa sẹo lồi, mụn lồi: Lá tươi rửa sạch, liều lượng tùy theo nhu cầu, cho thêm một dúm muối, giã nát, đắp vào vùng sẹo, mụn lồi, sẽ làm tam sẹo, mụn lồi. Đắp đến khi mặt da phằng thì ngừng thuốc.

3.2. Theo kinh nghiệm dân gian.

Tài liệu nói về cây Hoàn ngọc lưu truyền trong dân gian rất nhiều, nhưng có một bài được cho là của GS Phạm Khuê, do ông Nguyễn Văn Cứng ở Melbourne cung cấp. Đó là một bài viết khá đầy đủ, giọng văn vừa trí tuệ với tầm hiểu sâu, biết rộng, vừa khiêm tốn,  rất giống với văn phong của GS Phạm Khuê. Chỉ tiếc là nay GS Phạm Khuê đã "đi xa" nên chúng tôi không có điều kiện xác minh. Nhưng thiết tưởng, cây Hoàn ngọc không có độc, mà kinh nghiệm dân gian thì rất phong phú, nhiều bài thuốc hay, cây thuốc rất tốt nhưng các nhà khoa học chưa có điều kiện nghiên cứu, thẩm định. Riêng cây Hoàn ngọc này đã nhiều người dùng đều thấy có kết quả, nhất là dùng cho những người mắc bệnh hiểm nghèo, thuộc loại nan y như ung thư, HIV/AIDS... thì nên áp dụng theo cách mà GS Phạm Khuê chỉ dẫn và ông Nguyễn Văn Cứng đã cung cấp. Đặc biệt đối với người nghèo, bệnh trọng. Kính mong quý vị tham khảo, nếu có điều kiện thì áp dụng hoặc mách cho bạn bè, người thân áp dụng, vì với những bài thuốc rẻ tiền, công hiệu thì càng nhiều người biết, áp dụng, chữa khỏi bệnh, càng tốt. 

Dưới đây là toàn văn bài viết của GS Phạm Khuê do ông Nguyễn Văn Cứng cung cấp.

Từ một hiệu quả điều trị cho một bệnh nhân bị ung thư gan, sau khi các loại thuốc đã bó tay, khi được ăn những lá tươi xanh người bệnh đã có những chuyển biến bất ngờ. Nhiệt độ từ 39,5oC hạ xuống còn 37o, cơn đau bớt hẳn, nước da bớt vàng, bụng nhỏ lại, người nhẹ nhàng, bệnh nhân có thể ngồi dậy tiếp chuyện. 

Biểu hiện công hiệu của thuốc như sau: Sau khoảng từ 20 phút đến một giờ thuốc có tác dụng. Nếu ăn 5 lá giảm đau được 3 giờ, 7 lá giảm đau được 5 giờ, tương đương với một liều thuốc đặc trị. Thực tế ấy làm cho gia đình người bệnh ngạc nhiên, phấn khởi nhưng với lòng luyến tiếc bởi nếu dùng thuốc sớm hơn thì kết quả có thể hy vọng cứu được người bệnh. Dùng lá trong lúc bệnh tình đã đến giai đoạn cuối nhưng gây được chuyển biến như vậy thì thật tuyệt vời. Ðó là cây “Hoàn ngọc”, Cây thuốc cực kỳ quý giá. Một món quà thiên nhiên tặng cho con người. Xuất xứ cây này được gọi là cây “con khỉ” vốn là vì khỉ ăn chữa khỏi bệnh thủng ruột, nhưng sau đổi thành “Hoàn ngọc” vì đã trả lại cho chú bé hòn dái bị biến mất do trò chơi nghịch đá vào bìu nhau. 

Cây thuốc rất đa năng. Từ hồi phục trạng thái của cơ thể khỏe mạnh đến các bệnh thông thường cũng như hiểm nghèo. Cây thuốc như cứu tinh trong nhiều trường hợp thúc bách, không rõ nguyên căn, nhưng sau khi ăn, diễn biến của bệnh tương tự như một hành động điều trị, điều chỉnh trạng thái cơ thể, chỗ nào yếu điều trị chỗ đó. 

Công dụng và cách dùng:

- Dùng lá tươi ăn ngay hoặc xay lấy nước uống, hay nấu chín lá ăn như canh. 

- Tác dụng chủ yếu là chất nước trong lá. Lá tươi không có mùi vị, dễ ăn, liều lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào từng người. Thông thường nên ăn từ 1- 7 lá và ăn nhiều lần. Mỗi lần không quá 10 lá. Vỏ cây hoặc vỏ rễ có thể ngâm bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Uống quá liều có thể phản ứng nhẹ như người bị choáng váng nhưng chỉ sau 10 – 15 phút là khỏi. Dùng chữa các bệnh chủ yếu sau đây:

1. Khôi phục sức khỏe cho người mới ốm dậy, người già, suy nhược thần kinh, làm việc quá sức, mệt mỏi toàn than…  ngày ăn 2 lần, mỗi lần 3-7 lá x 10 – 15 ngày.

2. Cảm cúm, sốt cao: Ăn 8 lá, cách nhau 1 giờ, sau 3 lần sẽ hạ sốt, hết đau đầu.

3. Chấn thương chảy máu, dập gãy cơ thể, dùng như nước uống và thuốc đắp. Ðặc biệt hiệu nghiệm với vết thương sọ não. 

4. Khi bị nhiều bệnh một lúc như: Bệnh đường ruột, cảm cúm, gan, thận, tràn dịch màng phổi… đều dùng tốt. 

5. Tiêu chảy, tả, lỵ, rối loạn tiêu hóa: 7-15 lá, dùng 2 lần là khỏi.

5. Viêm loét dạ dày, tá tràng, đại tràng, trĩ nội: ăn 2 lần/ngày, mỗi lần ≈ 7 lá. Khoảng 50 lá là khỏi. Chảy máu đường ruột: nhai tươi hoặc giã lấy nước đặc uống, 7–10 lá, ≈ 1-2 lần là khỏi. Viêm đại tràng co thắt: Ăn như trên 100 lá, kết hợp ăn lá mơ lông trong bữa ăn. Ăn từ 1 đến 2 tháng.

6. Ðau gan, viêm gan, xơ gan: Ngày 2-3 lần, mỗi lần 7 lá, dùng ≈ 150 lá.  

7. Viêm thận, viêm đường tiết niệu, đái ra máu, đái buốt, đái dục, đái gắt, bìu đau nhức: Ăn từ 14-21 lá hoặc giã uống nước, ăn 150 lá đến 200 lá khỏi hẳn. 

8. Ðau thận thường xuyên, đau bên trong không rõ nguyên nhân: ngày 3 lần, mỗi lần 3-7 lá, dùng không quá 50 lá, chỉ khoảng 30 lá là dứt cơn đau.

9. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, đau ứ máu: đắp 3 lá vào mắt sau một đêm là khỏi.

10. Phụ nữ đang cho con bú bị sa dạ con ăn lá không ảnh hưởng gì đến sữa. 

11. Người có bệnh huyết áp (cao hoặc thấp), rối loạn thần kinh thực vật ăn lá thuốc đều có hiệu quả, đều khỏi. 

12. Chữa bệnh cho gia súc, gia cầm: Chó cảnh đẻ ăn 1 lá sau 1 ngày đẻ là mạnh ngay. Chó Nhật đẻ một ngày cho ăn lá sạch ngay. Gà chọi sau khi chọi cho ăn 1-3 lá nó hồi phục sức gấp 3 lần.

Theo tôi dùng chữ “Thần dược” với cây thuốc nầy cũng không quá. Là một nhà nghiên cứu tôi muốn đặt câu hỏi “Tại sao?” để chúng ta bàn luận. Tại sao khi ăn thuốc có khả năng hiệu chỉnh làm cơ thể ổn định? Có lẽ nhờ phân tích hóa chất gì đó đã tạo nên những hiệu quả như vậy. Chúng ta tốn rất nhiều thời gian và phải có thí nghiệm tốt. Theo kinh nghiệm trong dân gian, ta hãy rút ra từ thực tế. Ví dụ: Suy nhược thần kinh nặng, huyết áp cao, huyết áp thấp, đái ra máu, đái gắt đều chữa được rất nhanh chóng. Có những bệnh xem như đối lập nhau cho một loại thuốc nhưng ngược lại thuốc vẫn chữa được. Phải chăng theo quy luật bảo toàn, cơ thể con người có khả năng bảo tồn lấy sức khỏe nên đã tự động tăng sức đề kháng hoặc tự điều chỉnh, tự cân bằng tương đối để thắng bệnh tật. Khi ta dùng “Hoàn ngọc”, lá thuốc này có tác dụng chữa bệnh như châm cứu, tức là tự động điều chỉnh lại cơ thể để khắc phục bệnh tật do tự tác dụng, tự cân bằng âm dương. Vì vậy cây còn có tên là “Nhật Nguyệt”. Chính vì thế mới có khả năng chữa nhiều bệnh cùng một lúc như vậy. Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi đã vận dụng để chữa rất nhiều bệnh và phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên với từng người còn phải có liều lượng cho phù hợp do tính chất cân bằng âm dương và hàn nhiệt của từng người. 

Về hình thức cây thuốc: 

Ðây là loại cây lá dài nhọn, mặt sau hơi nhạt, hình lá tương tự màu cây, cây cứng không có hoa, cây có lá mọc đối xứng, kẻ lá chồi cành cây chúc ngược lên, lá nó không bền mà chỉ vàng một chút là rụng ngay. Cây có sức sống khỏe như cành mọc thẳng, nhân giống chủ yếu bằng ngọn cây cắm xuống đất. Làm thuốc là để tự cứu lấy mình và cứu người khi có điều kiện. Ðây là những kinh nghiệm của bản thân tôi, tôi không dám phổ biến sợ người hiểu biết hơn cho là hồ đồ. Song nếu các bạn thu kết quả gì đó thì lấy đó làm kinh nghiệm. Mặt khác khi thu được kinh nghiệm thì nên trao đổi.

GS Phạm Khuê