Tác dụng của cây trầm gửi cây gạo: trị sốt rét
Tác dụng của việc uống bia với sức khỏe
Cây hoàn ngọc (xem ảnh) còn có tên là cây con khỉ, họ Ô rô (Acantaceae). Trong tự nhiên, có hai loại là hoàn ngọc đỏ (Pseuderanthemum bracteatum) và cây hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum).
Thứ nhất, cây hoàn ngọc đỏ (cây xuân hoa lá hoa), là cây bụi, cao từ 0,6 đến 1,5m, sống lâu năm. Lúc còn non, thân trơn nhẵn, màu hơi vàng hồng, lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài, phiến lá hình mũi mác. Lá non có vị chát, hơi chua, thường được dùng ăn kèm với thịt, cá như một loại rau gia vị để giúp cho việc tiêu hóa tốt, tránh đầy bụng, sôi bụng, đau bụng. Cây ra hoa vào tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, khi đó người dân cắt lấy phần trên mặt đất, gồm các cành non và lá, rửa sạch phơi khô. Khi dùng cần cắt ra từng đoạn 5 đến 7cm, liều 20 đến 40g/ngày sao vàng, sắc lấy nước uống để chữa bệnh: Đau bụng, quặn bụng, sôi bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống nát, trĩ, đi ngoài ra máu. Ngoài ra, lấy lá tươi, rửa sạch, giã nát đắp và băng chặt vào chỗ vết thương chảy máu có tác dụng cầm máu.
Thứ hai, cây hoàn ngọc trắng (cây xuân hoa), cũng thuộc loại cây bụi, phân nhiều cành, có chiều cao khoảng 1- 2m, lá mọc đối, hình mũi mác, đầu lá nhọn, thường xuyên xanh cả hai mặt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành có màu trắng pha tím. Khi nhấm, lá có dịch nhầy nhớt. Vị thuốc là lá của cây hoàn ngọc trắng. Hoàn ngọc trắng cũng mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc. Hoàn ngọc trắng cũng được dùng để trị các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, rối loạn tiêu hóa... Trên thực tế, hoàn ngọc trắng dùng trị viêm đại tràng thể nhiệt, tốt hơn như táo bón, đau bụng, trĩ xuất huyết. Có thể dùng lá tươi, rửa sạch, ăn sống hoặc sắc lấy nước uống, ngày 8 đến 10g.
Để trị viêm loét dạ dày, tá tràng, xuất huyết đường tiêu hóa, trĩ nội, có thể dùng hoàn ngọc trắng, ngày 2 đến 3 lần, mỗi lần 8 đến 10g. Dùng liền 2 tuần lễ. Ngoài ra có thể dùng trị các vết thương khi té ngã bị chảy máu, tụ máu, lở loét... Ngoài ra có thể lấy lá tươi, rửa sạch, giã dập, đắp bó vào nơi bị đau.
Tác dụng chữa đau dạ dày & bách bệnh của Cây “hoàn ngọc”
Gần đây, không ít bạn đọc báo Lao Động lại đề nghị làm rõ hơn về tác dụng chữa bệnh của cây thuốc dân gian có tên là hoàn ngọc. PGS.TSKH Trần Công Khánh (Trường Đại học Dược Hà Nội) - người đã và đang nghiên cứu xác minh tác dụng của cây hoàn ngọc (nay chính thức gọi là cây xuân hoa), sẽ thông báo tóm tắt những kết quả mới được nghiên cứu về cây thuốc này. Ông cho biết:
Cây xuân hoa có tên khoa học là Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk. Qua nghiên cứu cho thấy thành phần hoá học của cây có các chất sau (xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít): Sterol, đường tự do, carotenoit, flavonoit, axít hữu cơ, vết saponin và vết chất béo. Thử nghiệm cho thấy cây xuân hoa không độc và không thấy có biểu hiện khác thường nào đối với người dùng.
Theo tài liệu chuyền tay trong dân gian mà chúng tôi có được thì cây xuân hoa có rất nhiều công dụng, chữa các bệnh từ thông thường đến nan y. Nhưng phải qua các thí nghiệm mới xác minh được các tác dụng lưu truyền đó. Trước hết cao đặc toàn phần và các phân đoạn chiết tách từ lá cây xuân hoa (cả cây trồng và cây mọc hoang) đều có tác dụng kháng khuẩn đối với nấm mốc, nấm men, đặc biệt vi khuẩn Escherichia coli ở đường tiêu hoá. Điều này phù hợp với kinh nghiệm dân gian dùng lá cây xuân hoa chữa đau bụng, tiêu chảy do nhiễm khuẩn, rối loạn tiêu hoá. Ngoài ra, cao đặc lá cây xuân hoa còn có tác dụng ức chế quá trình peroxy hoá lipid màng tế bào, có xu hướng tác dụng bảo vệ tế bào gan.
Cây xuân hoa sử dụng liều lượng ra sao? Có thể dùng thường xuyên để phòng tránh bệnh hay không?
- Lá cây xuân hoa không mùi vị, hơi nhớt. Thường dùng lá tươi rửa sạch, nhai với mấy hạt muối rồi chiêu nước, hoặc giã nát lấy nước uống, hay nấu canh. Cũng có thể dùng lá phơi khô. Về liều lượng còn phụ thuộc vào loại bệnh của từng người: Thông thường ăn 5-7 lá/lần (lá nhỏ có thể dùng 7-9 lá), ngày 1-2 lần. Thời gian điều trị tuỳ vào bệnh như rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, lỵ trực khuẩn chỉ dùng 2 ngày là khỏi; đái rắt, buốt, ra máu dùng 3-4 ngày; viêm đại tràng co thắt điều trị khoảng 2 tuần, kết hợp với lá mơ lông. Lá cây xuân hoa cũng được dùng cho gia súc, gia cầm như chó cảnh sau khi đẻ cho ăn vài lá, gà chọi khi thi đấu cho ăn 1-3 lá.
Thưa TS, cây xuân hoa tương đối phổ biến nhưng vẫn có người nhầm nó với một loại cây khác có hình dáng tương tự, vậy làm sao để phân biệt?
- Để tránh nhầm lẫn, xin nhắc lại các đặc điểm dễ nhận biết của cây xuân hoa: Cây bụi, cao từ 1-3m, sống nhiều năm, thân non mềm màu xanh lục, phần già hoá gỗ màu nâu, phân nhiều cảnh mảnh. Lá mềm mọc đối, mép lá nguyên. Phiến lá hình mũi mác, hai đầu nhọn, dài khoảng 15cm, rộng 4cm, khi vò tươi thấy lá nhớt và hơi dính tay. Cuống lá dài khoảng 2cm, gốc phiến lá men xuống cuống lá. Cụm hoa dài 10-16cm ở kẽ lá hoặc đầu cành. Hoa lưỡng tính, không đều, dài khoảng 3cm, cánh hoa màu trắng, phần dưới hình ống hẹp, trên có 5 thuỳ hoa chia làm 2 môi, thuỳ dưới của môi dưới có các chấm màu tím. Bao phấn màu tím. Vòi nhụy dài khoảng 2,5cm.
Hoàn ngọc gần như đã trở thành một thứ cây không thể thiếu trong những gia đình may mắn có một khoảng đất, dù là rất nhỏ. Không ít gia chủ còn giữ bên mình những tờ rơi trình bày có vẻ rất "khoa học" về công dụng và cách sử dụng của loại "thần dược" này. Nếu tin vào đó thì không có bệnh gì là không thể chữa khỏi. Thế nhưng, thực tế thì sao?
Lâu nay, tại TP HCM xuất hiện một tài liệu đề tên tác giả là một tiến sĩ, thiếu tướng, một thầy thuốc nổi tiếng ở Hà Nội và được quảng cáo là kinh nghiệm "đúc kết" sau điều trị cho bệnh nhân trong hơn 2 năm.
Chữa được vô số bệnh
Tài liệu liệt kê rất nhiều công dụng của hoàn ngọc:
- Chữa đi lỏng, lỵ, rối loạn tiêu hoá, táo bón, đau bụng không rõ nguyên nhân (ăn 7-9 lá, khoảng 2-3 lần/ngày cho đến khi khỏi).
- Nếu nghi đau ruột thừa, khi chưa kịp đi cấp cứu có thể ăn đến 15 lá trong phạm vi 2 giờ, cơn đau sẽ rút và tiếp tục đi cấp cứu.
- Điều trị chảy máu dạ dày và đường ruột, đái ra máu.
- Giảm đau trong ung thư gan, phổi, dạ dày… (ăn 2 lần/ngày, mỗi lần 3-7 lá, có thể dùng kéo dài được 6 tháng).
- Chữa khỏi khối u xơ ở phổi và tuyến tiền liệt, xơ gan cổ trướng, viêm gan, viêm thận cấp hoặc mạn, suy thận…
- Điều trị được chấn thương sọ não, va đập, gãy dập xương hay bắp thịt: Lá thuốc có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập (với vết thương kín cần nhai lá rồi đắp, với vết thương hở nên giã).
Tuy nhiên, tài liệu đã "cẩn thận" ghi rõ không phải khi nào có bệnh ăn lá cũng khỏi ngay, rằng phần lớn trường hợp bệnh đều khỏi nhưng cũng có khi không.
Gần đây, lại xuất hiện thêm một tài liệu khác, mang tựa đề "Cây thuốc kỳ diệu - cây hoàn ngọc hay nhật nguyệt", ghi rõ do một giáo sư đứng đầu một viện về y khoa viết từ năm 1995. Tài liệu này cũng khẳng định đây là một cây thuốc đa năng, cứu tinh trong nhiều trường hợp, với khả năng kỳ tài là "chỗ nào yếu điều trị chỗ ấy". Theo đó, hoàn ngọc chữa được cảm cúm, đau gan, viêm thận, tràn dịch màng phổi, đau mắt đỏ, mắt trắng. Người có huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều có hiệu quả, ổn định được thần kinh…!
Chưa thể kết luận
Theo lương y Đinh Công Bảy, Tổng thư ký Hội Dược liệu TP HCM, Uỷ viên BCH Hội Đông y TP HCM, cần phân biệt 2 loại cây hoàn ngọc:
- Loại dùng trong chữa bệnh: Có lá hình xoan nhọn, ngắn, màu xanh nhạt, thân đứng, cao khoảng 0,5-1 m, có tên khoa học là Pseuderanthemum palatiferum (Nees), Radlk, thuộc họ ôrô (Acanthaceae).
- Loại hoàng ngọc lá dài, màu xanh đậm, thân bò, trên 1 m, không dùng chữa bệnh.
Tiến sĩ Trần Công Khánh cho biết, đã có nghiên cứu, sơ bộ xác định trong lá hoàn ngọc có chứa sterol, coumarin, đường khử, carotenoid và axit hữu cơ. Thuốc này được ghi nhận trong dân gian, nhưng mới sử dụng điều trị bệnh trong thời gian gần đây nên chưa được đúc kết kinh nghiệm, cần có thời gian và các phương pháp nghiên cứu khoa học kiểm chứng mới có thể đưa ra kết luận cụ thể. Riêng về tác dụng giảm đau của hoàn ngọc, ông khẳng định là chưa ghi nhận được bất cứ trường hợp lâm sàng nào.
Một số công dụng được ghi nhận
Ông Khánh cũng cho biết, trong thực tế, cây hoàn ngọc có công hiệu tốt đối với một số bệnh thuộc hệ tiêu hoá như viêm loét dạ dày, rối loạn tiêu hoá, nhiễm khuẩn đường ruột, chữa đái buốt, đái ra máu, bị chấn thương.
Cách dùng:
- Rửa lá thật sạch, nhai với chút muối cho nhừ rồi nuốt. Có thể giã nát, hoà với nước để uống, hoặc lấy lá nấu canh nhạt để ăn.
- Liều lượng 2-8 lá/ngày, chia làm 2 lần, trước bữa ăn.
- Thời gian điều trị 7-20 ngày, tuỳ loại bệnh và mức độ của bệnh.
- Không nên sử dụng quá 10 lá vì có thể gây cảm giác khó chịu.
Như vậy, chúng ta nên thận trọng khi sử dụng loại lá thuốc này và đừng quá tin vào nó, khi có bệnh cần đi khám bác sĩ chuyên khoa để có hướng điều trị kịp thời.
Hoàn ngọc được khám phá là vị thuốc nhờ một số người sắc tộc Raglay vùng huyện Bắc Bình (Bình Thuận) đi làm rẫy, hái củi, thấy các loài khỉ, vượn mỗi khi bị bệnh tìm đến ăn lá và đọt non cây tu lình, sau đó hết bệnh. Trích ly lá, hoa và thân rễ hoàn ngọc đều cho một số chất enzyme, các sinh tố A, B, C, D, E và khoáng chất vượt trội hơn bồ ngót và chùm ngây. Theo bác sĩ Đường Quốc Huân (thuộc đại học Thanh Hoa – Viện Y học cổ truyền Trung Quốc), những bệnh nhân rối loạn tiêu hóa, ăn uống kém; người cao tuổi miền núi cao nguyên Vân Nam mỗi khi đi rừng bị rắn cắn, ong đốt hoặc ngã chảy máu, chỉ cần hái từ 5-10 lá hoàn ngọc nhai nát, nuốt nước cốt, lấy xác đắp lên vết thương là cầm máu, tẩy độc tố.
Sau đây là 3 đơn thuốc với hoàn ngọc:
- Đơn thuốc 1: Chữa loét, viêm dạ dày: Hái từ 5-7 lá già xanh lục thẩm, rửa sạch, giã nát với ½ muỗng muối, hòa thêm vào 10ml nước nấu chín, vắt lấy nước cốt, uống từ 7-10 ngày, ăn uống giảm hết đau, không ợ chua, hết cảm giác đau lúc đói hoặc no.
- Đơn thuốc 2: Điều chỉnh huyết áp, ổn định thần kinh não, ngủ ngon: Hái từ 10-12 lá hoàn ngọc non (màu tím than nhạt) + 5 hoa đã nở màu trắng ngà, cho vào 2 chén nước, nấu còn 1 chén. Chia làm 2 uống trưa, chiều liên tục 10 ngày.
- Đơn thuốc 3: Chữa viêm gan, tiền u bướu, suy thận, u phổi, tuyến tiền liệt: 50-70gr lá vừa chớm già, 20gr thân rễ, rửa sạch, sao khử thổ. Nấu chung với 0,5 lít nước còn 200ml. Chia làm 3 phần uống trong ngày. Liên tục 15 ngày.
Công dụng của cây hoàn ngọc
CÁCH DÙNG VÀ LIỀU LƯỢNG :
Người ta dùng lá tươi là chủ yếu. Nhưng trong trường hợp, ở phòng thuốc dùng lá khô cũng tốt, nhưng phải một nắm lá trọn bàn tay, và sắc theo kiểu cổ điển: nước nhất, 3 chén, còn lại 1 chén, nước nhì, 2 chén còn 8 phân.
-Còn lá tươi thì ăn ngay, giã hay xay sinh tố uống, hoặc là nấu canh ăn. Liều lượng trong 1 ngày dùng trọn nắm lá chia đều 3 buổi sáng, trưa, chiều.
- Thông thường, nhai từ 7 lá đến 10 lá, bệnh nhẹ nhai 3 lần , bệnh nặng nhai 6 lần. Mỗi lần nhai không quá 10 lá, nếu không biết mà nhai quá liều thì bị choáng nhẹ, nhưng không sao chỉ trong vòng 10 đến 15 phút là khỏi.
CÔNG DỤNG :
1.Chữa các bệnh về đường tiêu hóa :đi lỏng, rối loạn tiêu hóa, táo bón, đau bụng .
- Ăn từ 7 đến 9 lá , một ngày 4 lần . Ba ngày lành bệnh.
- Nếu đau bụng mà nghi là đau ruột thừa chưa kịp đi cấp cứu ( vì bệnh viện xa nhà ), ăn liều cao :15 đến 20 lá, bình tĩnh cứ ráng nhai cho kỷ , ăn 4 lần trong vòng 1 đến 2 giờ , cơn đau không còn bức bách , sẽ giảm nhẹ , và tiếp tục phải đi bệnh viện cấp cứu.
2. Bệnh kèm theo chảy máu :chảy máu dạ dày, đường ruột, phân có máu, đi tiểu ra máu kể cả đái buốt, đái gắt (đái nhỏ giọt và nóng ).
- Lấy 1 nắm lá tươi, đổ 2 chén nước, nấu còn 1 chén, uống sáng sớm khi chưa ăn gì, hoặc lúc bụng đói, hoặc là nấu canh nhạt, ăn 1 bát nhỏ . Ăn 1 ngày 3 lần sáng, trưa , chiều. Một tuần là hết bệnh.
3. Bệnh ung thư thời kỳ mới phát, bệnh nhân thường đau nhức nhiều, ăn ngủ không được.
- Nhai chậm chậm 10 lá ( nhớ là phải nhai sao cho có nước miếng ). Ăn lá xong, sau 20 phút là cơn đau giảm dần. Cứ như thế, một ngày 5 lần. Sau 3 tháng, hết ung thư .
***** Nếu ung thư đã lâu.cũng không nên bi quan, cứ nhai chậm 15 lá, một ngày 6 lần. Nhưng sáng sớm uống 1 ly nắm lá xay sinh tố, tối uống 1 ly nắm lá nấu chín ( một nắm lá bằng nắm tay bệnh nhân ). Nên nhớ là kiêng đạm động vật ( thịt heo, gà , bò.. ) vì những thức ăn nầy làm cho tế bào ung thư sinh sản mau chóng .Bạn có rất nhiều hy vọng, không dám nói là chữa lành ung thư , nhưng điều thấy trước mắt là bạn đở nhức nhối .Mong bạn kiên nhẫn , thực hiện xem sao, còn nước, còn tát mà.
(Ung thư là bệnh Trơì kêu ai, nấy dạ. Mong bạn đừng bi quan, cứ vừa ăn lá Hoàn Ngọc, vừa niệm A-DI-ĐÀ-PHẬT, rất nhiều hy vọng khỏi bệnh).
4. Chữa các bệnh u xơ phổi, tiền liệt tuyến :
- một nắm lá tươi xay sinh tố với 1 chén nước, uống trước bữa ăn. Mỗi ngày 3 lần, uống 1 tháng hết bệnh .
5 Các bệnh về gan :xơ gan củ trướng, viêm gan:
- Ăn 10 lá tươi khi bụng còn đói. Một ngày 3 lần.
- Lá phơi khô xay bột, hòa với bột Tam Thất theo tỉ lệ 1/1, chính là thuốc trị xơ gan củ chướng đặc hiệu .Bệnh nhân uống trước bửa ăn 1 muổng cà phê , 1 ngày 3 lần. Bụng cảm thấy nhẹ và xẹp dần .Hai tháng hết hẳn .
6. Bệnh về thận: viêm thận cấp, hoặc mãn, suy thận, các hiện tượng, đái đục, đái ra máu :Nhai 9 lá , 1 ngày 3 lần. Sau 1 tháng các triệu chứng trên giãm dần và ...hết bệnh .
7.Chữa viêm lóet :
- Ăn lá tươi khi bụng còn đói, nhất là buổi sáng, mỗi lần 7 lá, 3 lần buổi sáng, 2 lần buổi chiều. Chỉ cần ăn trong 2 tuần. Sau khi lành bệnh, tuyệt đối cấm uống rượu. Nếu uống rượu thì bệnh phát nặng hơn và không chữa bằng lá hoàn ngọc được !
8. Điều chỉnh huyết áp, ổn định thần kinh :
- Khi biến đổi huyết áp (cao hay thấp ), nhai chậm , rất chậm 9 lá ( cho nước miếng quyện vào lá. Ăn xong, nằm nhắm mắt nghỉ ngơi trong thời gian ngắn khoảng 15 phút thì huyết áp sẽ trở lại bình thường .
9. Chữa về chấn thương : Các loại chấn thương, chảy máu, gảy, dập xương hay bắp thịt ...Lá hòan ngọc già có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập, viêm nhiễm .
- Tùy vết thương nặng, nhẹ, to, nhỏ...mà nhai lá đấp vào vết thương. Trước hết, cầm máu, sau thì đấp lá và băng lại. Khỏang 2, 3 giờ sau thì thay băng.
10.Khi cảm cúm : có hiện tượng đau đầu, sốt, mệt mỏi, ngứa cổ ho khan :
- Ăn 8 lá, cứ cách 1 giờ ăn 8 lá, 3 lần như thế cơn sốt nhanh chóng hạ, hết đau đầu .Còn mệt ăn cháo cá hay cháo thịt nấu với lá hòan ngọc, hành, gừng, tiêu. Một ngày sau sẽ trở lại bình thường .
Theo nghiên cứu của Viện khoa học Hoa Kỳ năm 1981, lá Hòan Ngọc có đề kháng rất mạnh chống Virus cúm ở người, cũng như ở con gà, con vịt ( dân gian còn gọi là mắc dịch )
11. Khôi phục sức khỏe: Khi mệt mỏi toàn thân vì lao động nhiều, hay bệnh mới hết, biếng ăn, khó ngủ :
- Sáng trước khi ăn điểm tâm, nhai 5 đến 7 lá. Tối trước khi đi ngủ nhai 5 đến 7 lá.Cứ như thế khỏang 1 tuần lễ thì rất khỏe.
PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG VÀ TRỒNG CÂY :
- Lúc đầu ta chỉ cần có 1 cây.
- Sau khi mọc nhánh được trên 3 đốt, ta cắt đốt thứ 3
- và cắm 1 đốt xuống đất .Nên che nắng và giữ độ ẩm .
- Sau 1 tuần, nếu ngọn không héo thì cây đã bén rễ.
***** Khi ngắt lá, tránh ngắt hết cuốn, cành sẽ chay (cứng) sẽ không ra lá nữa.Ta nên cắt từ đầu thân lá .
CHỐNG CHỈ ĐỊNH :
Cây Hòan ngọc không độc, không đề kháng thuốc, sau khi phân chất gồm có :sterol, đường tự do, carotenoit, flovonoit, acit hửu cơ. Không có biểu hiện khác thường nào đối với người dùng .
CHÚ Ý :
1./ Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Lê Thế Trung cây Hòan ngọc đã được chữa trị trên lâm sàng ,các bệnh nhân ở bệnh viện 103 , thì hiệu quả rất đáng tin cậy . Quí vị phải tuân thủ theo hướng dẫn và liều lượng như trên .
2/ Nước bọt đóng vai trò quan trọng trong chữa bệnh, nhất là phải nhai chậm cùng với lá hòan ngọc .
3/ Khi điều trị phụ nử đang cho con bú, không ảnh hưởng đến tuyến sửa.
4/ Các súc vật như chó, gà, chim bồ câu, và cả chuột rất thích lá cây nầy. Lợn ăn lá sẽ kích thích tiêu hóa và mau lớn.
MÔ TẢ :
Cây HÒAN NGỌC còn gọi là cây " Nhật Nguyệt ",và nhiều tên nửa là " Tú Linh", " Thần dưỡng sinh "...có tên khoa học là Pseuderanthemur thuộc họ Ô Rô (Acanthaceae) .Có lẽ, chưa có một cây thuốc nào mà lại có nhiều tính năng trị bệnh như vậy .
Truyền thuyết, Hòan Ngọc vốn là cây mọc hoang trong rừng Cao Lạng, cây mọc và sống rất dễ dàng, một năm có thể cao 3 mét. Lá mềm, không xơ, dài nhọn, mặt phải xanh thẫm, mặt trái xanh nhạt. Lá già hơi đắng,lá non nhỏ không mùi vị. Lá mọc đối xứng tạo thành mắt, lá vàng dễ rụng. Về mùa xuân, cây ra hoa thành chùm ở cuối cành, cuốn hoa ngắn, ống hoa dài, hoa có 6 cành nhỏ, màu trắng tím nhạt, không thấy quả. Thân cây già, màu xám nâu, rễ mọc chùm, không có rễ cái. Cây có sức sống khỏe, rất thích nước. Vì vậy mà vào mùa mưa cây phát triển mạnh mẽ, vọt cao rất nhanh, cành lá xum xuê.
CÁCH DÙNG VÀ LIỀU LƯỢNG :
Người ta dùng lá tươi là chủ yếu. Nhưng trong trường hợp, ở phòng thuốc dùng lá khô cũng tốt, nhưng phải một nắm lá trọn bàn tay, và sắc theo kiểu cổ điển: nước nhất, 3 chén, còn lại 1 chén, nước nhì, 2 chén còn 8 phân.
-Còn lá tươi thì ăn ngay, giã hay xay sinh tố uống, hoặc là nấu canh ăn. Liều lượng trong 1 ngày dùng trọn nắm lá chia đều 3 buổi sáng, trưa, chiều.
- Thông thường, nhai từ 7 lá đến 10 lá, bệnh nhẹ nhai 3 lần , bệnh nặng nhai 6 lần. Mỗi lần nhai không quá 10 lá, nếu không biết mà nhai quá liều thì bị choáng nhẹ, nhưng không sao chỉ trong vòng 10 đến 15 phút là khỏi.
CÔNG DỤNG :
1.Chữa các bệnh về đường tiêu hóa :đi lỏng, rối loạn tiêu hóa, táo bón, đau bụng .
- Ăn từ 7 đến 9 lá , một ngày 4 lần . Ba ngày lành bệnh.
- Nếu đau bụng mà nghi là đau ruột thừa chưa kịp đi cấp cứu ( vì bệnh viện xa nhà ), ăn liều cao :15 đến 20 lá, bình tĩnh cứ ráng nhai cho kỷ , ăn 4 lần trong vòng 1 đến 2 giờ , cơn đau không còn bức bách , sẽ giảm nhẹ , và tiếp tục phải đi bệnh viện cấp cứu.
2. Bệnh kèm theo chảy máu :chảy máu dạ dày, đường ruột, phân có máu, đi tiểu ra máu kể cả đái buốt, đái gắt (đái nhỏ giọt và nóng ).
- Lấy 1 nắm lá tươi, đổ 2 chén nước, nấu còn 1 chén, uống sáng sớm khi chưa ăn gì, hoặc lúc bụng đói, hoặc là nấu canh nhạt, ăn 1 bát nhỏ . Ăn 1 ngày 3 lần sáng, trưa , chiều. Một tuần là hết bệnh.
3. Bệnh ung thư thời kỳ mới phát, bệnh nhân thường đau nhức nhiều, ăn ngủ không được.
- Nhai chậm chậm 10 lá ( nhớ là phải nhai sao cho có nước miếng ). Ăn lá xong, sau 20 phút là cơn đau giảm dần. Cứ như thế, một ngày 5 lần. Sau 3 tháng, hết ung thư .
***** Nếu ung thư đã lâu.cũng không nên bi quan, cứ nhai chậm 15 lá, một ngày 6 lần. Nhưng sáng sớm uống 1 ly nắm lá xay sinh tố, tối uống 1 ly nắm lá nấu chín ( một nắm lá bằng nắm tay bệnh nhân ). Nên nhớ là kiêng đạm động vật ( thịt heo, gà , bò.. ) vì những thức ăn nầy làm cho tế bào ung thư sinh sản mau chóng .Bạn có rất nhiều hy vọng, không dám nói là chữa lành ung thư , nhưng điều thấy trước mắt là bạn đở nhức nhối .Mong bạn kiên nhẫn , thực hiện xem sao, còn nước, còn tát mà.
(Ung thư là bệnh Trơì kêu ai, nấy dạ. Mong bạn đừng bi quan, cứ vừa ăn lá Hoàn Ngọc, vừa niệm A-DI-ĐÀ-PHẬT, rất nhiều hy vọng khỏi bệnh).
4. Chữa các bệnh u xơ phổi, tiền liệt tuyến :
- một nắm lá tươi xay sinh tố với 1 chén nước, uống trước bữa ăn. Mỗi ngày 3 lần, uống 1 tháng hết bệnh .
5 Các bệnh về gan :xơ gan củ trướng, viêm gan:
- Ăn 10 lá tươi khi bụng còn đói. Một ngày 3 lần.
- Lá phơi khô xay bột, hòa với bột Tam Thất theo tỉ lệ 1/1, chính là thuốc trị xơ gan củ chướng đặc hiệu .Bệnh nhân uống trước bửa ăn 1 muổng cà phê , 1 ngày 3 lần. Bụng cảm thấy nhẹ và xẹp dần .Hai tháng hết hẳn .
6. Bệnh về thận: viêm thận cấp, hoặc mãn, suy thận, các hiện tượng, đái đục, đái ra máu :Nhai 9 lá , 1 ngày 3 lần. Sau 1 tháng các triệu chứng trên giãm dần và ...hết bệnh .
7.Chữa viêm lóet :
- Ăn lá tươi khi bụng còn đói, nhất là buổi sáng, mỗi lần 7 lá, 3 lần buổi sáng, 2 lần buổi chiều. Chỉ cần ăn trong 2 tuần. Sau khi lành bệnh, tuyệt đối cấm uống rượu. Nếu uống rượu thì bệnh phát nặng hơn và không chữa bằng lá hoàn ngọc được !
8. Điều chỉnh huyết áp, ổn định thần kinh :
- Khi biến đổi huyết áp (cao hay thấp ), nhai chậm , rất chậm 9 lá ( cho nước miếng quyện vào lá. Ăn xong, nằm nhắm mắt nghỉ ngơi trong thời gian ngắn khoảng 15 phút thì huyết áp sẽ trở lại bình thường .
9. Chữa về chấn thương : Các loại chấn thương, chảy máu, gảy, dập xương hay bắp thịt ...Lá hòan ngọc già có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập, viêm nhiễm .
- Tùy vết thương nặng, nhẹ, to, nhỏ...mà nhai lá đấp vào vết thương. Trước hết, cầm máu, sau thì đấp lá và băng lại. Khỏang 2, 3 giờ sau thì thay băng.
10.Khi cảm cúm : có hiện tượng đau đầu, sốt, mệt mỏi, ngứa cổ ho khan :
- Ăn 8 lá, cứ cách 1 giờ ăn 8 lá, 3 lần như thế cơn sốt nhanh chóng hạ, hết đau đầu .Còn mệt ăn cháo cá hay cháo thịt nấu với lá hòan ngọc, hành, gừng, tiêu. Một ngày sau sẽ trở lại bình thường .
Theo nghiên cứu của Viện khoa học Hoa Kỳ năm 1981, lá Hòan Ngọc có đề kháng rất mạnh chống Virus cúm ở người, cũng như ở con gà, con vịt ( dân gian còn gọi là mắc dịch )
11. Khôi phục sức khỏe: Khi mệt mỏi toàn thân vì lao động nhiều, hay bệnh mới hết, biếng ăn, khó ngủ :
- Sáng trước khi ăn điểm tâm, nhai 5 đến 7 lá. Tối trước khi đi ngủ nhai 5 đến 7 lá.Cứ như thế khỏang 1 tuần lễ thì rất khỏe.
PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG VÀ TRỒNG CÂY :
- Lúc đầu ta chỉ cần có 1 cây.
- Sau khi mọc nhánh được trên 3 đốt, ta cắt đốt thứ 3
- và cắm 1 đốt xuống đất .Nên che nắng và giữ độ ẩm .
- Sau 1 tuần, nếu ngọn không héo thì cây đã bén rễ.
***** Khi ngắt lá, tránh ngắt hết cuốn, cành sẽ chay (cứng) sẽ không ra lá nữa.Ta nên cắt từ đầu thân lá .
CHỐNG CHỈ ĐỊNH :CÂY HOÀN NGỌC KHÔNG CÓ CHỐNG CHỈ ĐỊNH :
Cây Hòan ngọc không độc, không đề kháng thuốc, sau khi phân chất gồm có :sterol, đường tự do, carotenoit, flovonoit, acit hửu cơ. Không có biểu hiện khác thường nào đối với người dùng .
CHÚ Ý :
1./ Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Lê Thế Trung cây Hòan ngọc đã được chữa trị trên lâm sàng ,các bệnh nhân ở bệnh viện 103 , thì hiệu quả rất đáng tin cậy . Quí vị phải tuân thủ theo hướng dẫn và liều lượng như trên .
2/ Nước bọt đóng vai trò quan trọng trong chữa bệnh, nhất là phải nhai chậm cùng với lá hòan ngọc .
3/ Khi điều trị phụ nử đang cho con bú, không ảnh hưởng đến tuyến sửa.
4/ Các súc vật như chó, gà, chim bồ câu, và cả chuột rất thích lá cây nầy. Lợn ăn lá sẽ kích thích tiêu hóa và mau lớn.
KẾT LUẬN: Tôi là người đã có kinh nghiệm chữa trị bằng cây Hoàn Ngọc.Do đó, tôi xin phép cống hiến cái hay, cái lạ cho quý vị, góp phần làm từ thiện .Nếu không tin, xin quý vị thử dùng cho biết, không có hại gì cả.
Cây Xuân hoa (tên dân gian gọi là Hoàn ngọc, Hoàn ngọc âm, +Nhật nguyệt, Nội đồng, Lay gàm, Dièng tòn pièng (Dao), Nhần nhéng (Mường), Tu lình… là câu chuyện thú vị về một công trình khoa học của TSKH. Trần Công Khánh. Là cây thuốc dân gian, trước đây Xuân hoa chưa có tên trong các sách về cây thuốc ở Việt Nam. Năm 1987, một người bạn cho ông biết thông tin về một loại cây dân gian gọi là: "Nội đồng, Hoàn ngọc…”. Ăn lá cây này có thể chữa được các bệnh đường ruột. Ông đã xin mấy cành mang về ươm trồng trong vườn thực vật của trường Đại học Dược Hà Nội. Sau mấy năm, cây ra hoa, Ông đã xác định được tên khoa học của nó là Pseuderanthemum palatiferum (Wall.) Radlk., thuộc họ Ô rô (Acanthaceae), và đặt tên chính thức cho nó là Xuân hoa.
Khi đã biết tên La tinh, TSKH. Trần Công Khánh tiếp tục tìm các thông tin khoa học trên thế giới về cây này. Một Trung tâm dữ liệu về thực vật của Mỹ (ở Chicago) đã xác nhận cây Xuân hoa chưa có ai nghiên cứu. Đối với nhà khoa học thì đây là một tin đáng mừng. Từ năm 1990, nhóm nghiên cứu do ông chủ trì đã bắt đầu nghiên cứu cây Xuân hoa từ thực vật, hóa học, đến các tác dụng sinh học của nó.
Xuân hoa là một cây bụi, cao 1-3m, sống nhiều năm, thân non mềm màu xanh lục, thân già hoá gỗ màu nâu, nhiều cành mảnh. Lá mọc đối, cuống lá dài 1,5-2,5cm, phiến lá mềm, hình mũi mác... Cụm hoa là xim dài 10-16cm ở đầu cành, mang nhiều hoa màu trắng. Hiện nay, cây Xuân hoa được trồng khá phổ biến ở Việt Nam để làm thuốc.
Cho đến nay, những ứng dụng chữa bệnh của cây Xuân hoa được nhiều người sử dụng điều trị những bệnh tiêu chảy, nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, viêm đại tràng mạn tính, trĩ nội, cầm máu ngoài da. Ngoài ra, nó còn được dùng hỗ trợ để chữa các bệnh phổi, bệnh tiểu đường, cao huyết áp, mất ngủ, bệnh vẩy nến, v.v... Lá Xuân hoa không có mùi, không vị, hơi nhớt. Khi dùng thì rửa sạch, nhai với mấy hạt muối rồi chiêu nước. Có thể dùng lá đã phơi khô hoặc nấu canh để ăn. Liều dùng tuỳ thuộc vào bệnh, người lớn ăn 7-9 lá, ngày hai lần. Nếu bị rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, chỉ dùng vài lần là khỏi; bị đái rắt, đái buốt, đái ra máu, thì dùng 3-4 ngày; bị viêm đại tràng co thắt điều trị khoảng hai tuần.
Ở Việt Nam, còn có một cây gọi là Xuân hoa đỏ, hoặc Nhớt tím, có ở Khánh Hoà (Nha Trang). Nó cũng được trồng ở nhiều nơi làm cảnh như ở Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh. Theo kinh nghiệm dân gian, người ta dùng cây này để chữa lở miệng và làm lành vết thương.
Về cây Hoàn ngọc dương theo dân gian gọi, có tên khác là Hoàn ngọc đỏ (vì ngọn, lá non và thân có màu đỏ tía), theo TSKH. Trần Công Khánh là cây Bán tự mốc, tên khoa học là Hemigraphis glaucescens C.B Clarke, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là cây bụi nhỏ, cao khoảng một mét hoặc hơn, sống nhiều năm, thân và cành mảnh, đường kính khoảng 2-4mm, phần gốc thân khoảng 7-10mm, thân non hơi vuông, màu đỏ tía, đốt dài 6-8cm, các mấu hơi phình to. Lá nguyên, nhẵn, mọc đối, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới màu xanh nhạt, phiến lá hình thoi hẹp. Các lá non ở ngọn có màu đỏ tía. Cụm hoa dạng bông dài 2-3cm, ở đầu cành… Cây Bán tự mốc mọc hoang và cũng được trồng nhiều nơi ở nước ta, từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng đến miền núi.
Cây Bán tự mốc có các chất flavonoid (0,70 - 0,77%), tanin (0,84%), saponin, đường khử. Ngoài ra, còn có sterol và chất béo. Theo kinh nghiệm dân gian, phần trên mặt đất của cây dùng chữa viêm đại tràng cấp và mạn tính, rối loạn tiêu hoá, đau bụng co thắt, đầy chướng bụng, trĩ nội chảy máu, đại tiện ra máu, chảy máu do chấn thương. Có nơi dùng chữa viêm loét dạ dày (ở Thái Nguyên), hoặc chữa bệnh cao huyết áp (ở Hoà Bình). Lá có thể dùng tươi, hoặc cây khô sắc với nước rồi uống. Lá rửa sạch rồi nhai nuốt nước, nhả bã. Ngày ăn ba lần vào lúc đói, mỗi lần 20 lá. Dùng ngoài: Lá tươi giã nát, đắp vết thương rồi băng lại. Lá non được dùng ăn như rau sống để tăng vị hơi chua chát và phòng đầy bụng. Bán tự mốc chủ yếu được dùng trong dân gian, tránh nhầm lẫn với cây Xuân hoa.
Hoàn ngọc gần như đã trở thành một thứ cây không thể thiếu trong những gia đình may mắn có một khoảng đất, dù là rất nhỏ. Không ít gia chủ còn giữ bên mình những tờ rơi trình bày có vẻ rất "khoa học" về công dụng và cách sử dụng của loại "thần dược" này. Nếu tin vào đó thì không có bệnh gì là không thể chữa khỏi. Thế nhưng, thực tế thì sao?
Lâu nay, tại TP HCM xuất hiện một tài liệu đề tên tác giả là một tiến sĩ, thiếu tướng, một thầy thuốc nổi tiếng ở Hà Nội và được quảng cáo là kinh nghiệm "đúc kết" sau điều trị cho bệnh nhân trong hơn 2 năm.
Chữa được vô số bệnh
Tài liệu liệt kê rất nhiều công dụng của hoàn ngọc:
- Chữa đi lỏng, lỵ, rối loạn tiêu hoá, táo bón, đau bụng không rõ nguyên nhân (ăn 7-9 lá, khoảng 2-3 lần/ngày cho đến khi khỏi).
- Nếu nghi đau ruột thừa, khi chưa kịp đi cấp cứu có thể ăn đến 15 lá trong phạm vi 2 giờ, cơn đau sẽ rút và tiếp tục đi cấp cứu.
- Điều trị chảy máu dạ dày và đường ruột, đái ra máu.
- Giảm đau trong ung thư gan, phổi, dạ dày… (ăn 2 lần/ngày, mỗi lần 3-7 lá, có thể dùng kéo dài được 6 tháng).
- Chữa khỏi khối u xơ ở phổi và tuyến tiền liệt, xơ gan cổ trướng, viêm gan, viêm thận cấp hoặc mạn, suy thận…
- Điều trị được chấn thương sọ não, va đập, gãy dập xương hay bắp thịt: Lá thuốc có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập (với vết thương kín cần nhai lá rồi đắp, với vết thương hở nên giã).
Tuy nhiên, tài liệu đã "cẩn thận" ghi rõ không phải khi nào có bệnh ăn lá cũng khỏi ngay, rằng phần lớn trường hợp bệnh đều khỏi nhưng cũng có khi không.
Gần đây, lại xuất hiện thêm một tài liệu khác, mang tựa đề "Cây thuốc kỳ diệu - cây hoàn ngọc hay nhật nguyệt", ghi rõ do một giáo sư đứng đầu một viện về y khoa viết từ năm 1995. Tài liệu này cũng khẳng định đây là một cây thuốc đa năng, cứu tinh trong nhiều trường hợp, với khả năng kỳ tài là "chỗ nào yếu điều trị chỗ ấy". Theo đó, hoàn ngọc chữa được cảm cúm, đau gan, viêm thận, tràn dịch màng phổi, đau mắt đỏ, mắt trắng. Người có huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều có hiệu quả, ổn định được thần kinh…!
Chưa thể kết luận
Theo lương y Đinh Công Bảy, Tổng thư ký Hội Dược liệu TP HCM, Uỷ viên BCH Hội Đông y TP HCM, cần phân biệt 2 loại cây hoàn ngọc:
- Loại dùng trong chữa bệnh: Có lá hình xoan nhọn, ngắn, màu xanh nhạt, thân đứng, cao khoảng 0,5-1 m, có tên khoa học là Pseuderanthemum palatiferum (Nees), Radlk, thuộc họ ôrô (Acanthaceae).
- Loại hoàng ngọc lá dài, màu xanh đậm, thân bò, trên 1 m, không dùng chữa bệnh.
Tiến sĩ Trần Công Khánh cho biết, đã có nghiên cứu, sơ bộ xác định trong lá hoàn ngọc có chứa sterol, coumarin, đường khử, carotenoid và axit hữu cơ. Thuốc này được ghi nhận trong dân gian, nhưng mới sử dụng điều trị bệnh trong thời gian gần đây nên chưa được đúc kết kinh nghiệm, cần có thời gian và các phương pháp nghiên cứu khoa học kiểm chứng mới có thể đưa ra kết luận cụ thể. Riêng về tác dụng giảm đau của hoàn ngọc, ông khẳng định là chưa ghi nhận được bất cứ trường hợp lâm sàng nào.
Một số công dụng được ghi nhận
Ông Khánh cũng cho biết, trong thực tế, cây hoàn ngọc có công hiệu tốt đối với một số bệnh thuộc hệ tiêu hoá như viêm loét dạ dày, rối loạn tiêu hoá, nhiễm khuẩn đường ruột, chữa đái buốt, đái ra máu, bị chấn thương.
Cách dùng:
- Rửa lá thật sạch, nhai với chút muối cho nhừ rồi nuốt. Có thể giã nát, hoà với nước để uống, hoặc lấy lá nấu canh nhạt để ăn.
- Liều lượng 2-8 lá/ngày, chia làm 2 lần, trước bữa ăn.
- Thời gian điều trị 7-20 ngày, tuỳ loại bệnh và mức độ của bệnh.
- Không nên sử dụng quá 10 lá vì có thể gây cảm giác khó chịu.
Như vậy, chúng ta nên thận trọng khi sử dụng loại lá thuốc này và đừng quá tin vào nó, khi có bệnh cần đi khám bác sĩ chuyên khoa để có hướng điều trị kịp thời.
Ý nghĩa các loài hoa
Trồng hoa ban công chung cư như thế nào
Hướng dẫn trồng hoa thiên lý
Cách làm tinh dầu dừa an toàn
Tác dụng của cây lược vàng
Tác dụng của cây mật gấu đối với sức khỏe con người
Tác dụng của cây mật nhân "thần dược" cho sức khỏe
Tác dụng của nha đam (lô hội)
Tác dụng của rau ngót
Công dụng của nhựa cây mướp
Làm đẹp từ cây lô hội
Tác dụng của quả chùm ruột đối với sức khỏe
Tác dụng của quả lựu đối với sức khỏe con người
Tác dụng của chuối
(ST).