Bệnh viêm mạch máu (bệnh Kawasaki)
Cách chăm sóc người bệnh tai biến mạch máu não
Tai biến mạch máu não- không loại trừ ai
Hiện nay đang ngày càng gia tăng người trẻ bị tai biến mạch máu não (TBMMN), căn bệnh vốn được xem là của người già. Các BS cảnh báo, những thói quen không tốt cho sức khỏe chính là những tác nhân quan trọng dẫn TBMMN hay còn gọi là đột quỵ.
|
Một ca tai biến mạch máu não đang được các bác sĩ cấp cứu. |
TBMMN là một bệnh nặng gây nhiều tử vong. Khi một phần não bị thiếu máu nuôi dưỡng, các tế bào não thiếu oxygen sẽ bị chết đi. Nguyên nhân thường là do mạch máu đến não bị tắc nghẽn hoặc bị vỡ. Bệnh bao gồm 3 thể: chảy máu trong não, chảy máu dưới nhện và nhồi máu não.
Giải thích tình trạng gia tăng người trẻ bị TBMMN, TS. Thính cho biết: Cuộc sống công nghiệp thành phố khiến cho cuộc sống của đa số dân cư thành thị có thay đổi, ít tập thể dục. Bia, rượu, thuốc lá, thức ăn chứa nhiều dầu, mỡ như phô-mai, lòng đỏ trứng, thịt, lạp xường và các chất béo khác được sử dụng quá nhiều chính là một trong những yếu tố dẫn đến nguy cơ bị TBMMN. Triệu chứng của bệnh thường xảy ra đột ngột, liệt nửa người, liệt tay chân, khó nói…, tiến triển chỉ trong vài giờ hoặc vài ngày. Nếu người bệnh đột nhiên nhìn mờ hoặc bị nhòe, có thể chỉ bị ở một bên mắt. Bị yếu đột ngột ở một phần cơ thể. Đau đầu dữ dội và khó khăn trong nói hoặc hiểu người khác. Khi thấy bất cứ dấu hiệu nào như kể trên, phải gọi xe cấp cứu ngay lập tức. Bởi đó là những dấu hiệu bị TBMMN.
Theo các BS để phòng đột quỵ, người bệnh nên điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt phù hợp để kiểm soát các yếu tố nguy cơ như cao huyết áp, đái tháo đường, bỏ thuốc lá, không nên uống quá nhiều rượu bia. Tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ giấc. Ngoài ra, nên duy trì thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ, đo huyết áp đặc biệt nếu thấy cơ thể không khỏe, chóng mặt, đau đầu, buồn nôn cần đi khám ngay.
TS. Nguyễn Quang Tuấn
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là một thuật ngữ chung để chỉ các bệnh nhồi máu não (do tắc mạch não) và chảy máu não (do xuất huyết não). Bệnh hay gặp ở người lớn tuổi. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh là do vữa xơ động mạch và tăng huyết áp. Đôi khi do các cục huyết khối từ nơi khác gây thuyên tắc động mạch não như huyết khối trong tâm nhĩ, tâm thất hay gặp ở những bệnh nhân bị rối loạn nhịp tim (rung nhĩ), nhồi máu cơ tim, suy tim nặng, bệnh van tim... Việc phòng ngừa bệnh phụ thuộc vào các yếu tố nguy cơ của mỗi người.
Những ai có nguy cơ bị TBMMN?
Chảy máu não.
|
TBMMN xuất hiện do lòng động mạch máu nuôi não bị tắc do mảng xơ mỡ đóng ở thành mạch dày lên dần, làm hẹp lòng mạch; Xuất hiện cục máu đông di chuyển từ tim do tim bị bệnh loạn nhịp hoặc bệnh hẹp - hở van tim khiến máu ứ lại, đóng thành cục máu đông trong tim, sau đó chảy lên não làm kẹt lại gây tắc mạch máu não; Xuất huyết não (mạch máu bị vỡ làm chảy máu, chèn ép não bộ) và xuất huyết khoang dưới nhện (mạch máu bị phình rồi vỡ ra làm máu chảy vào khoang trống bao quanh não).
Người có nguy cơ TBMMN cao là người trên 55 tuổi, người bị tăng huyết áp, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu, các bệnh mạch vành, van tim, loạn nhịp tim, hút thuốc lá, béo phì- thừa cân, lười vận động và bị stress nặng hay thường xuyên.
Phòng ngừa bệnh như thế nào?
Mặc dù TBMMN là bệnh nguy hiểm song hoàn toàn có thể giảm được nguy cơ bệnh nếu biết cách phòng ngừa, đó là:
Liệu pháp thay đổi lối sống (thực hiện chế độ ăn kiêng và hoạt động thể lực) là biện pháp quan trọng làm giảm nguy cơ bị vữa xơ động mạch nói chung và tai biến mạch máu não nói riêng. Liệu pháp thay đổi lối sống bao gồm: Cai thuốc lá; có chế độ dinh dưỡng giàu vitamin, khoáng chất, hạn chế ăn quá nhiều chất béo và các thực phẩm giàu calo, liệu pháp dinh dưỡng còn nhằm làm giảm lượng lipid máu, giảm huyết áp và giảm đường máu nếu bệnh nhân bị đái tháo đường; Tăng hoạt động thể lực sẽ làm cải thiện tình trạng tim mạch và làm cải thiện các yếu tố nguy cơ tim mạch như rối loạn lipid máu, béo phì và tăng huyết áp.
Sơ đồ mạch máu não. |
Phòng ngừa tình trạng đông máu bằng thuốc: Tình trạng tăng đông có thể ảnh hưởng đến bệnh lý tim mạch. Điều trị bằng aspirin có lợi trong phòng ngừa tiên phát và thứ phát cho các bệnh nhân bị nhồi máu não. Liều điều trị nên lựa chọn là liều có hiệu quả cao nhất với tác dụng phụ ít nhất. Các bệnh nhân có nguy cơ cao hay những người có kèm theo tăng huyết áp, rối loạn lipid máu hoặc bệnh tim mạch (bệnh động mạch vành, đột quỵ hay bệnh mạch máu ngoại biên) nên được điều trị bằng aspirin 75-100 mg/ngày. Nếu bệnh nhân bị dị ứng với aspirin, các thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu khác như clopidogrel 75mg/ngày có thể được dùng thay thế ở các bệnh nhân có nguy cơ cao.
Điều trị rối loạn lipid máu: Những người trên 45 tuổi cần được kiểm tra lipid máu định kỳ, bao gồm cholesterol toàn phần, LDL-C, triglycerid và HDL-C sau khi nhịn đói 10-12 giờ. Nên kiểm tra định kỳ lượng lipid máu 6-12 tháng/lần. Mục tiêu điều trị rối loạn lipid máu là LDL-C dưới 2,6 mmol/l (100mg/dl), triglycerid dưới 2,3 mmol/l (200 mg/dl) và HDL-C bằng hoặc trên 1,0mmol/l (40mg/dl). Tuy nhiên, cần cân nhắc giữa lợi ích và giá thành, cũng như các tác dụng phụ có thể gặp khi dùng thuốc liều cao. Điều trị bằng thuốc phải kết hợp với liệu pháp thay đổi lối sống. Liều thuốc được tăng dần đến khi đạt được nồng độ LDL-C mục tiêu.
Kiểm soát trị số huyết áp: Tăng huyết áp rất hay gặp ở người có tuổi. Tăng huyết áp làm tăng nguy cơ bị các biến chứng tim mạch (đột quỵ, bệnh động mạch vành và mạch máu ngoại biên). Mục tiêu điều trị nhằm đạt trị số huyết áp dưới 140/90mmHg. Thay đổi lối sống và dùng thuốc được áp dụng cho các bệnh nhân có huyết áp trên 140/90mmHg. Các nghiên cứu gần đây cho thấy việc quan trọng nhất trong điều trị tăng huyết áp là đạt được trị số huyết áp mục tiêu. Nguyên tắc sử dụng thuốc hạ áp là nên bắt đầu với một thuốc liều thấp hoặc phối hợp các nhóm thuốc với liều thấp để vừa đạt được hiệu quả điều trị vừa làm giảm tác dụng phụ.
Lưu ý:
Trong mùa hè, thời tiết nắng nóng sẽ là yếu tố làm gia tăng các ca
TBMMN, vì vậy những bệnh nhân đã từng bị TBMMN và những người có nguy cơ
phải đặc biệt chú ý đến các biện pháp phòng bệnh, tránh hoạt động quá
sức và có chế độ ăn uống, lao động, nghỉ ngơi... phù hợp với sức khỏe.
Chăm sóc bệnh nhân sau tai biến mạch máu não tại nhà
Nước ép trái cây tươi là thực phẩm phù hợp với bệnh nhân tai biến mạch máu não. |
Tai biến mạch máu não là một hình thức rối loạn tuần hoàn não cấp tính, có thể gây đột tử hoặc liệt nửa người, thất ngôn, rối loạn tâm thần... Để giảm bớt các di chứng và phòng tái phát, khi trở về nhà sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân vẫn phải được chăm sóc và điều trị theo chế độ đặc biệt.
Sau đây là các hướng dẫn cụ thể:
1. Sinh hoạt, tập luyện
Trong trường hợp bệnh nặng, bệnh nhân chưa tự vận động được, người nhà phải giúp họ thay đổi tư thế 3 giờ một lần để tránh loét. Mỗi lần lật người, cần xoa rượu, cồn hoặc phấn rôm vào lưng, mông và các vị trí bị tì đè khác. Khi cho ăn uống, nên kê gối sau lưng bệnh nhân để giữ họ ở tư thế nửa nằm, nửa ngồi.
Đối với trường hợp nhẹ hơn, tùy mức độ di chứng liệt, cần đề ra một kế hoạch cụ thể cho bệnh nhân tập luyện hằng ngày. Cố gắng để cho họ tự làm ở mức tối đa, người nhà chỉ hỗ trợ hoặc giúp đỡ khi bệnh nhân không thể tự làm được. Quá trình tập luyện đòi hỏi sự kiên trì của cả bệnh nhân và người hướng dẫn. Nên duy trì việc này cả khi các di chứng đã được phục hồi.
2. Chế độ ăn
Cần đảm bảo chế độ ăn đủ chất và cân đối. Nên dùng dạng thức ăn mềm, dễ tiêu như cháo, súp, sữa, nước hoa quả tươi. Kiêng sử dụng các chất béo và chất kích thích (rượu, bia, chè đặc, cà phê); hạn chế dùng muối.
3. Điều trị
Nên kết hợp châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp và dùng thuốc để nhanh chóng phục hồi các chi bị liệt. Có thể áp dụng một trong các bài thuốc khắc phục di chứng tai biến mạch máu não sau:
- Thiên ma câu đằng ẩm: Thiên ma, chi tử, hoàng cầm mỗi thứ 8 g; câu đằng, ngưu tất, ích mẫu, hà thủ ô, bạch linh mỗi thứ 12 g; tang kí sinh, thạch quyết minh (sắc trước) mỗi thứ 20 g. Sắc uống ngày 1 thang.
- Bổ dương hoàn ngũ thang: Sinh hoàng kỳ 40 g, quy vĩ 8 g, xích thược 6 g, xuyên khung, đào nhân, hồng hoa, địa long mỗi thứ 4 g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Thuốc Tây y: Điều trị duy trì theo đơn của thầy thuốc. Trường hợp bệnh nhân có tăng huyết áp, nên dùng thuốc hạ huyết áp và duy trì ở mức 140-150/90 mmHg.
4. Thực hiện các biện pháp phòng bệnh
- Cẩn thận giữ mình khi thời tiết chuyển lạnh vào mùa đông và khi áp suất không khí lên cao vào mùa hè.
- Tránh tắm khuya hoặc ở nơi gió lùa, nhất là với người bị cao huyết áp.
- Tránh trạng thái căng thẳng thần kinh, xúc động mạnh. Tránh mất ngủ.
- Điều trị các nguyên nhân gây tai biến mạch máu não như tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, tiểu đường, rối loạn nhịp tim.
- Tránh táo bón. Kiêng rượu, bia và các chất kích thích.
- Tránh vận động thể lực quá mức như mang vác nặng, chạy nhanh...
ThS Nguyễn Thùy Hương, Sức Khỏe & Đời Sống
Tai biến mạch máu não
Bệnh mạch máu não cấp cũng gọi là tai biến mạch máu não là một chứng bệnh cấp tính thường gặp ở người trung niên và cao tuổi. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu của bệnh là: Phát bệnh đột ngột, hôn mê và bán thân bất toại. Bệnh có thể chia làm 2 loại: Xuất huyết não (Hémorragie cérébrale) và Nhũn não (Ramollissement cérébral). Xuất huyết não bao gồm chảy máu não và chảy máu dưới màng cứng. Nhũn não bao gồm sự hình thành huyết khối và sự tắc nghẽn mạch não. Trừ thể xuất huyết dưới màng cứng, sách Y học cổ truyền Đông phương gọi một tên chung là chứng ‘Trúng Phong’.
Đông y đã có nhận thức sớm về chứng tai biến mạch máu não. Cách đây hơn hai nghìn năm, trong sách ‘Linh Khu’ đã ghi các chứng: ‘Kích Bộc’, ‘Thiên Khô', ‘Phong Phì’, có các triệu chứng ghi như: Đột nhiên hôn bộc, một nửa người không cử động tự chủ. Và chứng ‘đại quyết’ trong sách Tố Vấn ghi vềø cơ chế bệnh là do khí huyết cùng thượng nghịch, và nói đến tiên lượng bệnh là: ‘Khí hồi phục (phản phục) được là sống, còn không phản phục được là chết. Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ gọi là chứng ‘trúng phong’ và mô tả các triệu chứng của trúng phong như sau: Bán thân bất toại, miệng méo, nói khó, nặng thì bất tỉnh nhân sự. Sách vở đời nhà Đường (701 - 704) và đời Tống (973 - 1098) nhận thức về nguyên nhân bệnh là do hư tồn, các thời đại sau bổ sung thêm nhiều luận thuyết, về nguyên nhân như Lưu HàGian cho là do ‘hỏa’, Lý Đông Viên cho là do ‘khí hư’, Chu Đan Khê cho là ‘đờm nhiệt’. Các học giả sau này như Trương Cảnh Nhạc (đời nhà Minh), Diệp Thiên Sĩ (đời nhà Thanh) đều cho rằng bệnh là do ‘nội thương’, ‘tích tổn’ mà thành chứ không phải do phong tà bên ngoài xâm nhập cơ thể. Về tạng phủ mắc bệnh, các học giả Đông y đều cho rằng sách ‘Nội kinh’ viết rằng: ‘Giận dữ nhiều thì hình khí bị tuyệt mà huyết tràn lên trên’, và ‘huyết khí cùng thượng nghịch’, phía trên là chỉ về não, một trong những phủ kỳ hằng, là bể của tủy, khí của não, có liên hệ thông với thận. Không chỉ nhận định rằng bệnh do não, Đông y cũng cho rằng bệnh có liên hệ đến nhiều tạng phủ khác như Can, Thận, Tâm, Tỳ, Vị v.v...
Việc phân loại ‘trúng kinh lạc’ và 'trúng tạng phủ’ chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng: nặng nhẹ mà phân loại: Nhẹ là trúng kinh lạc, nặng là trúng tạng phủ. Triệu chứng trúng kinh lạc thường là: Chân tay tê dại, miệng méo, hoặc nói khó, bán thân bất toại nhưng không có hôn mê. Triệu chứng trúng tạng phủ thì bệnh nặng mê man hoặc hôn mê bất tỉnh các triệu chứng lâm sàng nặng hơn.
Kết hợp với nhận thức của y học hiện đại, trước tiên cần xác định là chứng trúng phong do xuất huyết não hay do nhũn não. Nếu do xuất huyết não thì dùng phép thanh nhiệt, thông phủ, bình Can, tức phong, hoạt huyết, chỉ huyết là chính. Nếu là nhũn não phép chữa chủ yếu là ích khí, hóa ứ, dưỡng âm, hoạt huyết là chính.
Đông y còn cho rằng ‘trúng phong' là chứng bệnh dẫn đầu trong 4 loại bệnh lớn nội khoa và gắn triệu chứng bệnh với các tạng phủ cùng tiên lượng bệnh như sau: ‘Miệng há, tay buông thông là tỳ tuyệt; Mắt nhắm là Can tuyệt; Hôn mê bất tỉnh, mũi phập phồng là Phế tuyệt; đái dầm là Thận tuyệt; Lưỡi ngắn không nói được là Tâm tuyệt; Nấc cụt không dứùt là Vị khí tuyệt.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy số người bị tai biến mạch máu não ở tuổi trung niên khá đông. Điều này cho thấy thể chất con người trên 40 tuổi thường chuyển từ thịnh sang suy và bệnh tai biến mạch máu não thường liên quan đến các bệnh mà người trên 40 tuổi hay mắc như xơ mỡ mạch máu, cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường, bệnh béo phì... mà các bệnh này thường là ‘hư chứng’ hoặc trong hư kiêm thực chứng, phù hợp với nhâïn thức của Y học cổ truyền đã ghi trong sách ‘Nội Kinh’: ‘Người ta 40 tuổi là khí âm còn một nửa, đứng ngồi yếu'.
Do đó càng thấy rõ tai biến mạch máu não là bệnh nội thương mà bản chất bệnh là hư chứng. Những tác động bên ngoài như thời tiết thay đổi đột ngột hoặc những kích động tâm thần đột ngột làm cho can phong nội động, khí huyết nghịch loạn, hoặc uống rượu nhiều, ăn nhiều chất béo mỡ gây tích trệ tại tỳ vị tích cũng hóa nhiệt cũng gây ra phong động, cho thấy bệnh bản chất là hư nhưng thường kèm phong, đờm, nhiệt, ứ là vì vậy.
Nói chung, tai biến mạch máu não thường có 2 thể bệnh: Xuất huyết não và Nhũn não có nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau, triệu chứng lâm sàng có những đặc điểm riêng. Xuất huyết não thường khởi phát đột ngột, phần lớn hôn mê, bệnh cảnh lâm sàng nặng dễ dẫn đến tử vong (hôn mê càng sâu càng kéo dài tử vong càng cao). Nhũn não thường phát bệnh từ từ hơn, có những tiền triệu chứùng ít có hôn mê, tinh thần phần lớn là tỉnh táo, chỉ có liệt nửùa người, nói khó, bệnh chứng trên lâm sàng nhẹ hơn dễ hồi phục hơn. Nhưng cũng có những trường hợp nhất là những trường hợp mà huyết khí từ các nơi khác di chuyển đến não làm tắc nghẽn mạch não thì phát bệnh cũng đột ngột và cũng có nhữøng trường hợp hôn mê nặng, cần được lưu ý lúc chẩn đoán.
(Xem thêm chi tiết trong bài ‘Xuất Huyết Não’ và ‘Nhũn Não’).
Kết hợp điều trị bằng phương pháp y học hiện đại: Chủ yếu ở giai đoạn bệnh nhân hôn mê. Bệnh nhân cần được:
- Bảo đảm thông khí đường hô hấp: Hút đờm dãi, thở oxy.
- Bảo đảm đủ chất dinh dưỡng: Mỗi ngày ít nhất 1500 ca lo. Truyền dung dịch ngọt ưu trương xen kẽ với dung dịch ngọt và dung dịch mặn đẳng trương.
Theo dõi và xử trí kịp thời các biến chứng tán mạch như thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim...
- Chống loét (cần thay đổi tư thếâ) và chống nhiễm khuẩn.
- Cân bằng nước, điện giải... ổn định huyết áp.
Đối với bệnh nhân không hôn mê, huyết áp ổn định, thực hiện điều trị phục hồi càng sớm càng tốt.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
Một Số Bài Thuốc Trị Tai Biến Mạch Máu Não: (theo sách Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn).
(1) Địa Long Đơn Sâm Thang: (Khúc Hải Nguyên, tỉnh Cát Lâm).
Công thức: Địa long 20g, Đơn sâm 30g, Xích thược 15g, Hồng hoa 15g, Sinh địa 20g, Một dược 10g, sắc nước uống.
Tác dụng: Hoạt huyết, tức phong, thông lạc. Trị trúng phong.
Gia giảm: Âm hư dương thịnh thêm Quy bản 20g, Đơn bì, Mạch môn, Huyền sâm đều 15g; Đờm thấp thịnh thêm Bán hạ 15g, Trần bì, Phục linh đều 20g.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 32 ca, khỏi 4, có kết quả 27 ca, không hết quả 1 ca. Tỷ lệ kết quả 96%.
(2) Trúng Phong Tỉnh Thần Hợp Tễ (Triệu Kiến Kỳ, Bệnh viện số 2 trực thuộc Học viện trung y Thiên Tân).
Công thức gồm:
(1) Uất kim, Xương bồ đều 5g, theo tỷ lệ 1:1, chưng lấy nước cất thuốc đóng ống 10ml.
(2) Câu đằng, Tang ký sinh đều 20g, Hoàng cầm, Địa long đều 10g, tán bột mịn, đóng gói 15g.
(3) Bột Sừng trâu 1,5g, Ngưu hoàng nhân tạo 1,3g, tán bột thật mịn.
- Cách chế và dùng : Trước hết sắc bài số (2) 15 phút, sau cho bài (1) và (3) vào trộn đều uống, nếu nuốt khó cho vào đường mũi, mỗi ngày 3 lần sớm) trưa và tối.
Tác dụng: Bình can, tức phong, thanh tâm, khai khiếu. Trị tai biến mạch não cấp.
Gia giảm: Trường hợp sốt cao: uống Cam Lộ Thối Nhiệt Tán (Kim ngân hoa, Sinh thạch cao, Hạ khô thảo đều 20g, Chi tử 5g, tán bột mịn, đóng gói 15g/gói), cho vào sắc chung với bài số (2). Đàm nhiều, thêm bài thuốc trừ đàm (Đởm tinh 6g, Viễn chí 10g, Quất hồng 10g, tán bột thô), sắc cùng bài (2).
Kết quả lâm sàng: Trị 66 ca, kết quả tốt (tinh thần tỉnh sau 2-3 ngày, phản xạ sinh lý hồi phục, các triệu chứng chuyển biến rõ rệt). 5 ca, có kết quả (tinh thần tỉnh trong 5 ngày, các triệu chứng bệnh lý giảm nhẹ): 29 ca, có tiến bộ (tỉnh trong 5-7 ngày, triệu chứng giảm phần lớn) 23 ca, không kết quả (trên 7 ngày chưa tỉnh, các triệu chứng không có thay đổi rõ): 9 ca. Tỷ lệ có kết quả: 86,36%.
(3) Tư Thọ Giải Ngữ Thang (Lưu Tác Đào): Phòng phong 9g, Phụ phiến 6g, Thiên ma 6g, Toan táo nhân 9g, Linh dương giác (bao) 4,5g, Quế tâm (Tán bột hòa vào uống) 3g, Khương hoạt 9g, Cam thảo 3g, Huyền sâm 9g, Thạch xương bồ 6g, thêm 400ml nước, sắc còn 200ml, thêm Trúc lịch 1ml, nước cốt Gừng 1ml, trộn đều, chia làm 2 lần. Cách một giờ uống một lần.
Tác dụng: Khu phong, trừ đờm, trấn kinh, an thần, điều hoà âm dương, thông khiếu. Trị trúng phong, hàm răng nghiến chặt, không nói được.
Kết quả: Trị 3 ca, đều uống 2 thang là khỏi.
(4) Linh Liên Thang (Hà Duyệt Mai): Hoàng cầm, Bán hạ, Nam tinh (chế), Trúc nhự, Địa long đều 10g, Hoàng liên, Xuyên bối mẫu, Quất bì đều 9g, Phục linh, Chỉ thực, Ngưu tất đều 12g. Sắc uống.
Tác dụng: Táo thấp, hoá đờm, thanh nhiệt, trừ phiền, điều hoà Can Đởm. Trị trúng phong.
Gia giảm: Chân tay đau, tê dại, chất lưỡi đỏ sẫm hoặc có điểm ứ huyết: bỏ Bối mẫu, Ngưu tất, Quất bì, thêm Đan sâm, Đào nhân, Hồng hoa. Âm hư thêm Bạch thược, Sinh địa, Thạch hộc, Ngọc trúc, Huyền sâm. Táo bón thêm Qua lâu, Ma nhân. Ngủ ít thêm Táo nhân, Viễn chí, Dạgiao đằng.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 48 ca, khỏi 25 ca (hết liệt nửa người, hết méo miệng, nói lại được, tự phục vụ được...), hồi phục tốt 19 ca, không kết quả 4 ca.
(5) Thông Mạch Sơ Lạc Phương (Trương Văn Học).
(l) Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thược, chế thành dịch tiêm, truyền tĩnh mạch mỗi ngày 250ml, một liệu trình 10 ngày, nghỉ 4 ngày tiếp tục liệu trình 2.
(2) Hoàng kỳ 30g, Xuyên khung 10g, Địa long 15g, Xuyên Ngưu tất 15g, Đơn sâm 30g, Quế chi 6g, Sơn tra 30g, sắc nước uống.
Tác dụng: Ích khí, hoạt huyết, thông lạc. Trị nhũn não do huyết khối.
Gia giảm: Có rối loạn ngôn ngữ và ý thức: thuộc khí uất đàm thấp, dùng bài (1) thêm Uất kim, Xương bồ, Đơn sâm, chế thuốc chích, mỗi lần chích bắp 4ml, ngày 2 lần, nói và nuốt khó, bỏ Quế chi, thêm Đởm nam tinh 10g, Uất kim 10g; Đau đầu nhiều bỏ Quế chi thêm Cương tàm, Cúc hoa 15g ; Chóng mặt mà cơ thể mập,giảm Quế chi còn 10g, bỏ Hoàng kỳ, thêm Bạch truật, Trạch tả đều 10g, Phục linh 15g. Can dương thịnh, bỏ Quế chi, Xuyên khung, Hoàng kỳ, thêm Trân châu mẫu 30g, Sung úy tử 30g; Ăn kém, rêu lưỡi trắng dày, bỏ Quế chi thêm Bạch truật, Phục linh đều 10g, Y dĩ 20g hoặc Hoắc hương 20g, Bội lan 10g ; Nôn mửa thêm Trúc nhự 10g, Khương Bán hạ 10g ; Co giật bỏ Quế chi, thêm Bạch cương tàm 10g, Câu đằng 10g; Táo bón, miệng hôi thêm Đại hoàng 12g (cho sau).
Kết quả lâm sàng: đã trị 110 ca, khỏi (đi lại, tự săn sóc được) 52 ca (tỉ lệ 47,8%) kết quả tiến bộ tốt 36 ca (82,7%), khá 20 ca (18,2%) không kết quả 2 ca (1,8%). Tỷ lệ có kết quả 98,2%.
6) Đào Hồng Thông Mạch Phương (Hà Tiêu Tiên - Bệnh viện Tuyên Vũ, Bắc Kinh): Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung, Xuyên Sơn thêm Quế chi, Địa long, Uất kim, Xương bồ đều 5g, Đương qui, Xích thược, Bạch thược đều 10g, Sinh Hoàng kỳ, Đơn sâm đều 15g, chế thành thuốc bột, hòa uống. Số thuốc trên đóng thành 1 gói, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1/4 gói. Trường hợp nặng và bệnh lâu ngày, mỗi ngày 1 gói, chia 2 - 3 lần uống.
Tác dụng: Hoạt huyết, thông mạch. Trị nhũn não giai đoạn hồi phục và di chứng.
Kết quả lâm sàng: đã trị 46 ca, hồi phục 29 ca (68,11%)), kết quả tốt 14 ca (30,4%) có tiến bộ 8 ca (6,5%), 28 ca kèm huyết áp cao sau điều trị, hơn phân nửa huyết áp trở lại bình thường.
Châm Cứu Trị Di Chứng Tai Biến Mạch Máu Não
Trong châm cứu chia làm hai thể:
+ Phong Trúng Kinh Lạc: Khứ phong, thông lạc, hoạt huyết, hòa doanh, Tư âm, tiềm dương, Trấn Can, tức phong.
Chọn các huyệt ở mặt, tay chân bên liệt để châm.
+ Vùng Mắt :Thái dương (Nk), Toàn trúc (Bq.2) xuyên Tình minh (Bq.1), Dương bạch (Đ.14) xuyên Ngư yêu (Nk), Đồng tử liêu.
+ Vùng Mũi - Nhân trung: Nghinh hương (Đtr.20), Nhân trung (Đc.26).
+ Vùng Má:Giáp xa (Vi.6), Địa thương (Vi.4),
+ Vùng Cằm: Thừa tương (Nh.24).
+ Chi Trên Liệt : Kiên ngung (Đtr.15), Kiên liêu (Ttu.14), Khúc trì (Đtr.11), Tý nhu (Đtr.14), Kiên tam châm (Kiên tiền, Kiên ngung, Kiên hậu), Hợp cốc (Đtr.4).
+ Chi Dưới Liệt : Thận du (Bq.23), Hoàn khiêu (Đ.30), Ân môn (Bq.37), Bể quan (Vi.31), Túc tam lý (Vi.36), Dương lăng tuyền (Đ.34), Tam âm giao (Ty.6), Côn lôn (Bq.60).
+ Phong Trúng Tạng Phủ
. Bế Chứng: Tức phong, thanh hỏa, tiêu đàm, tân hương khai khiếu. Châm Nhân trung (Đc.26), Thừa tương (Nh.24), Liêm tuyền (Nh.23), Thập tuyên (châm ra máu).
. Thoát Chứng: Hồi dương, hồi âm, cứu thoát, tân ôn khai khiếu. Cứu Bá hội (Đc.20),
Quan nguyên ( Nh.4), Khí hải (Nh.6), Nội quan (Tb.5), Hợp cốc (Đtr.4), Tam âm giao (Ty.6).
Phòng Tai Biến Mạch Máu Não
Thất Điều Thang (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học): Thạch quyết minh, Hoàng kỳ (sống) đều 30g, Phòng phong, Đương quy, Xích thược đều 10g, Hạ khô thảo, Tang chi đều 12g, Cam thảo 5g. Sắc uống.
Sách ‘Vệ Sinh Bảo Giám’ hướng dẫn: “Hễ tay chân có cảm giác đau nhức, mất cảm giác, di chứng trúng phong, nên cúu ‘Trung Phong Thất Huyệt’. Bệnh bên phải cứu bên trái, bệnh bên trái cứu bên phải”. Đó là các huyệt: Bá hội, Hợp cốc, Khúc trì, Phong thị, Phong trì, Thái xung và Túc tam lý.
(ST)