Thức ăn bổ dưỡng cho "cậu nhỏ"
Tác dụng của hạt hướng dương trong y học
Trứng vịt lộn tần lá ngải thơm ngon bổ dưỡng
Chỉ số đường huyết (ĐH) sau ăn tăng vọt là một trong những yếu tố nguy cơ tim mạch hàng đầu. Nhiều nghiên cứu khoa học khẳng định rằng, kiểm soát chỉ số ĐH sau ăn bình thường và ổn định đã làm giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ). Hiện nay, đây là một trong những mục tiêu điều trị quan trọng đối với người bệnh ĐTĐ tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Mối liên hệ giữa ĐTĐ và các biến chứng tim mạch
ĐTĐ týp 2 được định nghĩa bởi tình trạng tăng ĐH mạn tính đã và đang là một trong những mối đe dọa chủ yếu đến sức khỏe con người ở thế kỷ 21. ĐTĐ là một nguy cơ chính của các bệnh tim mạch. Nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ cao gấp 2-10 lần so với người bình thường là một ví dụ minh chứng cho nhận xét nói trên.
Kiểm tra đường huyết.
|
Tăng ĐH sau ăn đóng vai trò hàng đầu trong biến chứng tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ
Chỉ chú ý điều chỉnh nồng độ ĐH khi đói ở bệnh nhân ĐTĐ là chưa đủ. Người ta nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ týp 2 tương quan với lượng đường trong máu sau ăn và không liên quan với lượng ĐH khi đói. Điều chỉnh nồng độ ĐH khi đói hoặc HbA1c hoặc cả 2 mà không điều chỉnh ĐH sau ăn sẽ không làm giảm được tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ. Ngược lại, kiểm soát chặt chẽ ĐH trước và sau ăn cho phép làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tim mạch.
Người ta nhận thấy rằng, tần suất nhồi máu cơ tim cao hơn 40% ở những bệnh nhân có nồng độ ĐH sau ăn lớn hơn 10 mmol/l so với những bệnh nhân có nồng độ ĐH sau ăn thấp hơn 8 mmol/l. Hàng loạt các nghiên cứu khoa học đã nhấn mạnh sự tương quan giữa mức độ tăng ĐH sau ăn và nguy cơ tử vong tim mạch, độc lập với nồng độ ĐH khi đói của bệnh nhân. Theo những nghiên cứu gần đây thì nguyên nhân của hiện tượng này là do những dao động tức thì của nồng độ ĐH sau ăn, đã làm biến đổi sự giải phóng gốc tự do và biến đổi các sản phẩm tạo ra từ gốc tự do. Thêm vào đó, chức năng nội mạc của mạch máu cũng thay đổi và nồng độ ôxít nitơ (NO) bị biến loạn. Ngoài ra, tăng ĐH sau ăn gây rối loạn hoạt động chức năng của các sợi collagen trong cấu trúc mạch máu và giảm thiểu khả năng giãn của các mạch máu trong cơ thể người bệnh.
Kiểm soát ĐH sau ăn là điểm quyết định quan trọng trong điều trị
Hiện nay, phần lớn bệnh nhân ĐTĐ tử vong đều do các biến chứng liên quan đến xơ vữa động mạch. Trong số các yếu tố cơ bản thì tăng ĐH mạn tính, thể hiện bằng nồng độ HbA1c giữ vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, nhiều thử nghiệm điều trị có kiểm soát được tiến hành ngẫu nhiên trên số lượng lớn bệnh nhân ĐTĐ, đã đưa ra những kết luận quan trọng về hiệu quả điều chỉnh ĐH sau ăn trong phòng ngừa tiên phát và thứ phát bệnh lý tim mạch. Vì thế, không nên quan niệm chỉ cần khống chế lượng ĐH khi đói và/hoặc HbA1c của bệnh nhân ổn định là đạt mục tiêu điều trị. Bình thường hóa và ổn định ĐH khi đói, nồng độ HbA1c, nồng độ ĐH sau ăn cần phải tiến hành một cách hệ thống và đồng bộ ngay từ khi chẩn đoán xác định người bệnh bị ĐTĐ, hoặc rối loạn dung nạp glucose là những quan niệm mới trong kiểm soát và điều trị tích cực (traitement intensifié) bệnh ĐTĐ hiện nay.
Hiện nay, biện pháp hiệu quả phòng ngừa nguy cơ biến chứng tim mạch đối với người bệnh ĐTĐ týp 2 là quan niệm điều trị tích cực: tiếp cận chẩn đoán sớm, điều trị đồng bộ, nhằm bình thường hóa và ổn định ĐH khi đói và đặc biệt là ĐH sau ăn - một thái độ điều trị mà hiện nay đang rất cần được sự lưu ý đúng mức ngay cả đối với nhiều thầy thuốc chuyên khoa.
Ăn để kiềm chỉ số đường huyết
Một chế độ ăn nhiều chất đường không chỉ gây hại cho người đái tháo đường (ĐTĐ) mà cho cả người bình thường.
Đường huyết tăng cao là nguyên nhân gây ra biến chứng mạch máu ở người ĐTĐ. Chẳng hạn như mù mắt, suy thận, bệnh thần kinh, nhồi máu cơ tim, đột quỵ và loét bàn chân... Trước đây, người ta nhận thấy tăng đường huyết khi đói (trước ăn) là nguyên nhân chủ yếu gây ra các biến chứng này.
Tuy nhiên, gần đây các nhà khoa học thấy rằng tăng đường huyết sau ăn cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra các biến chứng, đặc biệt là trên mạch máu lớn như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, loét bàn chân. Vì vậy người bệnh cần chú ý đến chỉ số đường huyết (CSĐH) trong thức ăn hằng ngày.
Chỉ số đường huyết là gì?
Các loại thực phẩm sau khi ăn sẽ được tiêu hóa, hấp thu vào máu và làm tăng đường huyết gọi là phản ứng đường huyết. Mức độ tăng đường huyết tùy thuộc số lượng thực phẩm ăn vào, hàm lượng và loại chất bột đường (carbohydrate, glucid), thành phần chất đạm, chất béo, chất xơ chứa trong thực phẩm, cách chế biến...
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của thực phẩm làm tăng đường huyết nhanh, trung bình hay chậm, người ta phải chuẩn hóa thực phẩm với cùng một số lượng chất bột đường là 50 gam như nhau và lấy đường glucose hay bánh mì trắng làm chuẩn với giá trị là 100, gọi là CSĐH (glycemic index)
Các loại thực phẩm làm tăng đường huyết nhanh sẽ có CSĐH cao từ 70 trở lên, mức CSĐH trung bình là từ 56-69, CSĐH thấp dưới 55 là những loại thực phẩm làm tăng đường huyết chậm.
Chỉ số đường huyết không tương ứng với vị ngọt
CSĐH của thức ăn không tương ứng với vị ngọt có nghĩa không phải ăn vào thấy ngọt sẽ làm tăng đường huyết: ví dụ bánh quy lạt có CSĐH cao hơn bánh quy bơ ngọt bình thường. Độ ngọt (hay sức ngọt) cũng là một yếu tố rất cần được chú ý vì nhiều người cứ nghĩ đường có tính ngọt và ăn cái gì càng ngọt thì càng có nhiều chất đường, thực tế khác hẳn định kiến sai lầm đó.
- Ở người ĐTĐ: ăn thực phẩm có CSĐH trung bình và thấp sẽ cung cấp glucose chậm rãi và đều đặn vào máu, giúp duy trì lượng đường huyết một cách ổn định. Ngược lại, ăn thực phẩm có CSĐH cao sẽ làm đường huyết tăng cao khó kiểm soát, dẫn đến biến chứng của bệnh ĐTĐ mau xảy ra.
- Ở người không ĐTĐ: nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy những người thường xuyên ăn các thực phẩm CSĐH thấp trong nhiều năm sẽ ít bị nguy cơ béo phì, ĐTĐ type 2 và bệnh mạch vành. Nếu thường xuyên ăn các thực phẩm CSĐH cao sẽ làm tăng nguy cơ béo phì, ĐTĐ và rối loạn chuyển hóa.
Những lưu ý về chỉ số đường huyết:
- CSĐH của thực phẩm thay đổi trên từng người, thậm chí cùng một người cũng khác nhau trong từng ngày, do mức đường huyết, sự đề kháng insulin.
- Thực phẩm được xay xát kỹ, xay nhuyễn, tán nhuyễn, nấu chín nhừ sẽ làm CSĐH càng tăng. Ví dụ, cà rốt tươi sống có CSĐH thấp hơn cà rốt xay sinh tố hay cà rốt nấu chín.
- Cũng là bánh mì nhưng bánh mì thô chứa nhiều chất xơ sẽ làm chậm tăng đường huyết hơn là bánh mì trắng. Bánh mì nâu được xử lý men (cho bánh mềm xốp) nên CSĐH lên đến hơn 100.
- Khoai tây nấu chín có CSĐH thấp hơn khoai tây chiên, khoai tây nướng.
- Hạt bắp nấu chín nguyên vẹn có CSĐH thấp hơn bắp nổ, bột bắp, bánh bột bắp.
- Thực phẩm chứa chất xơ sẽ tiêu hóa chậm nên làm giảm CSĐH.
- Khi ăn chung một thực phẩm có CSĐH cao và một thực phẩm có CSĐH thấp, CSĐH sau bữa ăn sẽ có giá trị trung bình.
- Ăn đa dạng thực phẩm trong một bữa ăn (có bột đường, đạm, béo, rau củ) có tác dụng ngăn cản hấp thu đường nhanh nên làm CSĐH của bữa ăn giảm.
Trong điều trị bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), chế độ dinh dưỡng là nền tảng giúp người bệnh kiểm soát tốt mức đường huyết, duy trì mức đường huyết ổn định trong “vùng an toàn”. Chế độ dinh dưỡng hợp lý còn giúp thầy thuốc dễ dàng điều chỉnh phương pháp điều trị phù hợp với bệnh nhân.
Nguyên tắc chung để xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý
Một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh ĐTĐ là do chế độ ăn uống không phù hợp. Chính vì thế, chế độ dinh dưỡng dành cho người ĐTĐ phải đảm bảo được sự cân bằng giữa các thành phần glucid (bột đường), lipid, protein và các chất khoáng, vitamin… Dinh dưỡng hợp lý sẽ đảm bảo duy trì chất lượng cuộc sống của người bệnh nhưng không làm tăng nguy cơ tiến triển của bệnh.
Ảnh minh họa. |
Vai trò của thành phần dinh dưỡng trong kiểm soát đường huyết
Để có sức khỏe tốt, người bệnh ĐTĐ cần ăn đầy đủ các chất, tuy nhiên cần phải hiểu biết về các thành phần dinh dưỡng trong bữa ăn, nhờ vậy người bệnh sẽ có mức đường huyết ổn định về lâu dài. Nên hạn chế thực phẩm có đường hấp thu nhanh như: bánh mì, khoai lang bỏ lò, đường cát, mật ong, trái cây… và lựa chọn những thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp, thực phẩm có nhiều chất xơ.
Xu hướng mới trong điều trị ĐTĐ type 2 là điều trị bền vững bằng cách tăng thời gian nghỉ ngơi của tế bào bêta, thông qua việc giảm kích thích bài tiết insulin. Để thực hiện điều này, các bác sĩ chỉ định bệnh nhân tăng cường sử dụng các loại thức ăn có chỉ số tăng đường huyết thấp, không chia nhỏ bữa ăn thành nhiều bữa trong ngày (trừ những trường hợp cần bữa phụ vào các thời điểm bệnh nhân có nguy cơ hạ đường huyết do hoạt động thể lực, insulin, thuốc hạ đường huyết)... Bệnh nhân nên lựa chọn những thực phẩm ít gây tăng đường huyết trong bữa ăn phụ.
Thành phần đầu tiên cần chú ý trong thực phẩm dành cho người bệnh ĐTĐ là glucid (có trong các loại ngũ cốc): từ 40% đến 55% tổng năng lượng trong ngày. Chế độ ăn nhiều glucid không những làm tăng đường huyết cao sau ăn mà còn gây ra rối loạn chuyển hóa lipid. Do vậy, chỉ những bệnh nhân ĐTĐ thể trạng gầy, hoặc bệnh nhân hoạt động thể lực nhiều mới áp dụng chế độ ăn nhiều glucid, còn bệnh nhân ĐTĐ quá cân, rối loạn chuyển hóa lipid phải tuân thủ chế độ ăn glucid thấp. Bệnh nhân nên sử dụng thực phẩm có chỉ số tăng đường huyết thấp, hạn chế đường đơn hấp thu nhanh.
Cũng cần chú ý đến lượng chất béo (lipid) trong thức ăn bao gồm các acid béo bão hòa (có trong mỡ, thịt động vật, thức ăn chế biến sẵn từ sản phẩm của động vật), acid béo không no một hoặc nhiều nối đôi (có nhiều trong dầu thực vật, mỡ cá). Lượng acid béo bão hòa không quá 10% tổng số năng lượng hàng ngày.
Bệnh nhân ĐTĐ nên quan tâm đến chất đạm (protein) trong bữa ăn hàng ngày. Protein đóng vai trò quan trọng trong tiến triển của biến chứng thận. Mức protein trong chế độ ăn bệnh nhân ĐTĐ chưa có biến chứng thận là 1 -1,2g/cân nặng/ngày; mức protein giảm xuống 0,8g – 0,7g/cân nặng/ngày khi biến chứng thận xuất hiện.
Ngoài ra, trong chế độ ăn, bệnh nhân ĐTĐ còn cần tăng cường chất xơ (làm chậm lại quá trình hấp thu glucose, giảm tăng đường huyết sau ăn), vitamin và chất khoáng… Rau xanh và hoa quả cung cấp nhiều chất xơ, vitamin và các chất chống oxy hóa như: vitamin E, vitamin C, một số yếu tố vi lượng như kẽm... Bệnh nhân có tăng huyết áp cần ăn nhạt. Bệnh nhân cũng có thể sử dụng bổ sung các sản phẩm dinh dưỡng dành riêng cho người bệnh ĐTĐ vì các thành phần dinh dưỡng nghiên cứu cân đối, đầy đủ vi chất, có mục đích không làm tăng đường huyết sau ăn, ổn định đường huyết ở trị số gần bình thường nhất và cung cấp đầy đủ năng lượng.
Việc thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý của bệnh nhân ĐTĐ cần có sự tư vấn và hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa. ĐTĐ là bệnh lý mãn tính nên cần phải có một chế độ ăn hợp lý liên tục và lâu dài. Chế độ dinh dưỡng hàng ngày tùy thuộc vào tình trạng bệnh và thể trạng sẽ giúp người bệnh kiểm soát tốt đường huyết, cải thiện chỉ số HbA1c nhờ vậy sẽ đạt mức đường huyết ổn định, có thể ngăn chặn các nguy cơ biến chứng do bệnh gây ra.
ThS. PHAN HƯỚNG DƯƠNG - Bệnh viện Nội tiết (Tổng hợp)