Món ăn truyền thống của người Việt Nam
Thói quen ăn uống của người Việt Nam
Hướng dẫn học thêu tay truyền thống Việt Nam
Đừng cố tìm thần dược, 3 loại rau dân dã này của Việt Nam mới là "thần dược" chống ung thư
Để duy trì sự sống, ăn uống luôn là việc quan trọng số một. Tuy nhiên, quan niệm và thói quen ăn uống của con người về vấn đề này hoàn toàn khác nhau, không ai giống ai. Đối với người Việt Nam, xuất phát từ nếp sống nông nghiệp thì ăn quan trọng lắm. Vì “có thực mới vực được đạo”, nó quan trọng tới mức “trời đánh còn tránh bữa ăn”, mọi hành động của người Việt đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn tiêu, ăn ngủ, ăn nằm, ăn cắp, ăn trộm…
Trong rất nhiều thói quen ăn uống của người Việt, dưới đây xin được giới thiệu và phân tích một số thói quen ăn uống phổ biến của người Việt vẫn tồn tại, dù ít nhiều đã thay đổi “hòa nhập nhưng không hòa tan”từ sự lai tạp văn hóa ở các nước khác.
Thích trò chuyện trong bữa ăn: Người Việt có thói quen tổ chức ăn uống tổng hợp, ăn chung. Cho nên các thành viên của bữa ăn liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Điều này khác hẳn với phương Tây, vì mỗi người đều có suất ăn riêng, mọi người hoàn toàn độc lập với nhau. Còn người Việt thì ngược lại, cho nên họ rất thích chuyện trò trong bữa ăn, trái hẳn với người Tây phương tránh nói chuyện khi ăn. Trò chuyện trong khi ăn là một nhu cầu thiết yếu của cư dân Việt, vì bữa ăn ngoài tác dụng “ăn để no” mà còn là dịp để anh em, họ hàng, bạn bè tụ tập lại để hỏi thăm sức khỏe, cuộc sống, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm làm ăn và có thể thoải mái bàn luận về vấn đề họ yêu thích. Vì có thức ăn ngon mà không hợp thời tiết thì không ngon, hợp thời tiết mà không có chỗ ăn ngon thì không ngon, có chỗ ăn ngon mà không có bạn bè tâm giao thì ăn cũng không ngon, có bạn bè tâm giao mà không khí bữa ăn không vui vẻ thì cũng ăn không ngon.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng: vì mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn. Đây là biểu hiện cao trong đời sống cộng đồng của người Việt. Nó đòi hỏi người ăn đừng ăn quá nhanh, quá chậm; đừng ăn quá nhiều song cũng đừng quá ít; đừng ăn hết mà cũng không nên ăn còn. Do vậy, hiện tượng sau khi ăn, trong đĩa bày thức ăn lúc nào cũng còn dư thức ăn, còn thức ăn trong chén của mọi người đều đã được ăn hết. Thói quen ăn này phản ánh khi ăn cơm khách, một mặt khách phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, nhưng mặt khác lại phải để chừa một ít trong các đĩa đồ ăn để chứng tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn. Mặt khác, ăn nhanh biểu thị là người vội vàng, thô lỗ, ăn chậm khiến người ta phải chờ, ăn nhiều, ăn hết là tham lam, ăn ít, ăn còn là chê không ngon… Truyện dân gian thường phê phán những người vô ý khi ăn và có nhiều cảnh dùng bữa ăn để kén rể. Do vây, mà ông bà ta rất chú trọng và nghiệm khắc khi dạy con cái: “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Trong đó giáo dục cách ăn được ưu tiên hàng đầu vì thông qua cách ăn người ta có thể nhận xét và kết luận ít nhiều về nhân cách cá nhân đó và cả gia đình của họ.
Phải có chén nước mắm (hay nước tương) khi ăn. Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt, trong khi các món ăn khác thì có người ăn, người không, còn cơm và nước mắm thì ai cũng dùng, cũng chấm. Do vậy, chén nước măm trở thành thước đo sự ý tứ, đo trình độ văn hóa của con người. Chấm nước mắm phải cho gọn, sạch, không nhiễu, chấm vương vãi là thể hiện con người vụng về, ẩu tả, chấm nước mắm mà để rơi thức ăn vào chén nước mắm là mất vệ sinh, ở dơ, ở bẩn, chấm hụt (hai, ba lần chấm mới được) là người không làm được việc, hay sai sót, không nên tin tưởng..
Không bới cơm nhiều hoặc quá ít vào mỗi chén. Chủ nhà ngồi đầu nồi phải rất tế nhị và mực thước khi bới cơm cho khách. Nhiều quá thì đầy dễ rơi, vãi, (khiến khách mang tiếng vụng về) và không có chỗ để thức ăn; ít quá thì ăn mau hết, phải đưa bới nhiều lần (khiến khách mang tiếng tham ăn). Thấy cơm trong nồi sắp hết, phải giảm tốc độ ăn của mình và người nhà (bới ít), tránh không để đũa cái va vào nồi, phải làm cho khách thấy đầy đủ, thoải mái nhất.
Sử dụng đũa khi ăn: đây là cách ăn phổ biến của người Châu Á. Nó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ những thói quen ăn những thứ không thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào được (như cơm, cá, nước mắm…) của cư dân Đông Nam Á. Trong khi đó, người phương Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm dao, muỗng, đĩa (mô phỏng động tác của con thú xé mồi), mỗi thứ thực hiện một chức năng riêng lẻ (sản phẩm của tư duy phân tích). Đôi đũa của người Việt thực hiện một cách tổng hợp và rất linh hoạt hàng loạt chức năng khác nhau: gắp và xé, dầm, khoắng, trộn, vét và nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn xa!
Cuộc nghiên cứu mới nhất của Công ty Ogilvy & Mather châu Á - Thái Bình Dương về chế độ ăn uống tại 14 quốc gia trong khu vực (có Việt Nam) đã đưa ra nhận định: Thói quen ăn uống của người tiêu dùng đang thay đổi, có xu hướng thích sử dụng đồ hộp, thực phẩm chế biến, các loại thức ăn nhanh...
Ông David Elworth, Giám đốc kế hoạch, phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Công ty Ogilvy & Mather, phát biểu tại cuộc hội thảo "Những xáo trộn về thói quen ăn uống" được tổ chức tại TP HCM ngày 4/12: Do thời gian công việc quá bận rộn, người tiêu dùng thường tìm đến những quán xá bán thức ăn nhanh, nên không thể có được một bữa ăn đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng. Trong các cuộc phỏng vấn gần 400 người tiêu dùng Việt Nam, có đến 35% người ăn tại quán hơn 3 lần/tuần (TP HCM: 51,4%, Hà Nội 18,6%); 50% người cho biết họ ăn lặt vặt suốt cả ngày thay vì trước đây chỉ ăn 3 bữa ăn chính. Trong khi đó đến 70% trẻ em cũng ăn uống không điều độ. Nguyên nhân của tình trạng trên là vì không có thời gian lựa chọn, mọi người thường ngại tìm hiểu các món ăn lạ nên thường chọn đồ ăn nhanh, thức ăn sẵn có bày bán khắp nơi.Cách ăn thiếu khoa học của người Việt Nam: Lời cảnh báo đến muộn
Người Việt Nam lâu nay có thói quen "Ăn theo tiếng gọi của dạ dày chứ không ăn theo chế độ dinh dưỡng". Đó là lời nhận định của các chuyên gia dinh dưỡng về cách ăn uống thiếu khoa học hiện nay của số đông người dân.
Vì sao những lời cảnh báo này không được đưa ra sớm hơn, để bệnh tật không gia tăng đến chóng mặt như hiện nay?
Sau nhiều năm trời phải ăn uống kham khổ do thiếu thốn, nay không ít người đã có suy nghĩ phải ăn uống thoải mái để bù lại những ngày tháng khổ cực đó. Bữa ăn ngày trước chỉ có cơm với rau. Thịt, cá là thức ăn quá "xa xỉ". Vậy mà, hơn 5 năm trở lại đây, nền kinh tế thay đổi, dịch vụ phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng lên rõ rệt đã làm biến đổi nhanh chóng cách ăn uống của người dân.
Từ chỗ ăn rau cho no bụng thì nay đổi sang ăn thịt, chất béo, chất đạm là chính. Nhìn từ góc độ xã hội, đó là sự thay đổi của thời đại văn minh, nhưng dưới cái nhìn của những nhà dinh dưỡng thì đó là sự báo động về cách ăn thiếu khoa học. GS. Hà Huy Khôi - Chủ tịch Hội Dinh dưỡng VN - cho rằng: Họ ăn nhiều thịt, chất béo, thức ăn nhanh và nguồn glucid tinh chế (đường ngọt)..., mà không biết rằng như thế là không tốt cho sức khoẻ".
Một điều tra về tiêu thụ lương thực, thực phẩm và tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam trong 20 năm qua - mới được Viện Dinh dưỡng công bố - đã làm rõ sự thật: Người VN đã có "một bữa no" đến quá mức. Lượng tiêu thụ thịt, chất béo ở người trưởng thành đã tăng lên rất nhanh, năm 1987 chỉ là 24,4 g/người/ngày đã lên tới 62 g/người/ngày năm 2005. Dầu mỡ cũng tăng từ 3 g/người/ngày lên 15,2 g/người/ngày...
Trong khi đó, thức ăn là cá và các loại hải sản chỉ dừng ở mức 50 g/người/ngày trong suốt 20 năm. Rau là thức ăn rất tốt cho sức khỏe lại có xu hướng giảm đi, từ 214 g/người/ngày xuống còn 203 g/người/ngày...
TS. Nguyễn Công Khẩn - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng - đã chỉ ra những bất cập trong thói quen ăn uống của người VN là ăn uống không điều độ, ăn theo sở thích. Đáng lẽ phải ăn nhiều rau, giảm ăn thịt thì chúng ta lại ăn nhiều thịt mà ít rau.
Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi người mỗi ngày cần ăn 300 g rau thì người VN chỉ ăn có 100 g, cần ăn 100-200 g cá thì chúng ta cũng chỉ ăn có 50 g. Một cách ăn tai hại nữa là ăn quá nhiều muối, khuyến nghị chỉ ăn 6 g muối/người/ngày thì lại ăn đến hơn 20 g muối...
Tưởng rằng, miếng ăn chỉ đơn giản là thoả mãn khẩu vị, ý thích mà không mấy ai biết rằng bệnh vào từ chính miếng ăn. Trước năm 1995, bệnh thừa cân, béo phì chỉ là chuyện ở các nước phương Tây. Nhưng ngay những năm sau đó, thừa cân, béo phì đã xuất hiện và gia tăng không ngừng.
Năm 2000, tỉ lệ béo phì ở người trưởng thành ở Hà Nội và TP.HCM là 10%, đến 2005 tỉ lệ này trong cả nước đã tăng lên 16,3%. Hội chứng chuyển hoá lần đầu tiên được điều tra cũng đã phát hiện có hơn 13% người mắc. Tăng huyết áp đã tăng lên 23%, số người đột quỵ tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước và người bị nhồi máu cơ tim tăng gấp 6 lần so với thập kỷ 60. Đái tháo đường cũng lên tới 5% số người mắc...
Các bệnh mạn tính không lây này gia tăng, đã đóng góp vào sự thay đổi mô hình bệnh tật và tử vong. VN đang đứng trước "gánh nặng kép về dinh dưỡng", trong khi suy dinh dưỡng vẫn còn là thách thức thì lại nảy sinh nhiều vấn đề khác liên quan đến dinh dưỡng.
Có một thực tế rất rõ ràng rằng, cách ăn của người VN - đặc biệt là những người ở thành phố - đã thay đổi từ 5-10 năm nay. Sự chuyển đổi này hoàn toàn theo hướng tự phát mà không hề có sự tư vấn, hướng dẫn của các chuyên gia dinh dưỡng. Đến bây giờ, Viện Dinh dưỡng mới chỉ ra những cách ăn uống bất hợp lý liệu có phải là những lời khuyến cáo quá muộn màng chăngSự thay đổi thói quen ăn uống trong 20 năm trở lại đây
Việt nam trong giai đoạn sau giải phóng (1975) và trước công cuộc “đổi mới” năm 1986 lâm vào tình cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm một cách nghiêm trọng, là một quốc gia nghèo đói trong khu vực luôn cần đến sự viện trợ từ những người bạn quốc tế, đặc biệt là các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Lương thực chủ yếu là cơm (gạo), trong khi đó năng suất trồng lúa rất thấp, có nơi chỉ 1,5 tone/ha.
Từ giai đoạn nghèo khó...
Người dân phải sử dụng thêm các nguồn lương thực khác từ: ngô, khoai, sắn, hạt bo bo,…thậm chí sử dụng các lương thực kém chất lượng. Trong giai đoạn đó, với cơ chế tập trung, bao cấp, không cho phép tồn tại kinh tế cá thể, việc giao thương chỉ xảy ra trong khu vực quốc doanh, cung không đủ cầu, dẫn đến tình trạng khan hiếm mọi nhu yếu phẩm, trong đó có thực phẩm. Nhiều người đã sống qua thời kỳ đó đều không khỏi rùng mình mỗi khi nhớ lại. Người ta gọi nó là: thời kỳ bao cấp. Khi tôi lớn lên thì thời kỳ đó đang lùi dần, bóng dáng của sự thiếu thốn và lạc hậu vẫn còn đó, trẻ con nông thôn quê tôi đến 10 tuổi lên thành phố mới nhìn thấy quả dưa hấu thật (trước đây chỉ xem trong sách tập đọc). Như vậy, bạn có thể hình dung được trong giai đoạn đó, tình hình dinh dưỡng của Việt Nam như thế nào. Và người dân khi đó không hề biết đến có một loại bệnh gọi là bệnh ĐTĐ tồn tại!!! (cũng không thể không kể đến sự chậm phát triển về y tế và giáo dục cũng là nguyên nhân của sự vô tình này).
Tuy nhiên, làm thế nào để vẫn đảm bảo dưỡng chất cho cơ thể khỏe mạnh và vẫn nhanh, tiện dụng? Đó chính là điều mà các bạn trẻ rất quan tâm hiện nay.
Thói quen ăn uống mới của giới trẻ Việt và sữa chua YoMost
Trong số 400 người tiêu dùng Việt Nam được hỏi, 35% cho biết họ ăn cơm bên ngoài hơn 3 lần một tuần và 50% thừa nhận ăn vặt suốt ngày thay vì ăn đúng ba bữa như trước đây (Nguồn: Thói quen ăn uống của người Việt Nam, vietbao.vn). Rõ ràng, thói quen ăn uống của người Việt, nhất là giới trẻ đã thay đổi rất nhiều. Các bạn trẻ ngày nay lựa chọn cách ăn uống sao cho tiết kiệm được nhiều thời gian nhất, song không vì thế mà yếu tố dinh dưỡng bị bỏ qua. Ăn sao cho khỏe? Ăn sao để giữ dáng và đẹp da?...là những mối quan tâm hàng đầu của họ. Chính vì thế các loại sản phẩm như sữa chua YoMost, do đáp ứng được các yêu cầu trên đây về dinh dưỡng và lại phù hợp với cuộc sống năng động của giới trẻ nên từ lâu đã được các bạn, nhất là các bạn gái lựa chọn.
Uống sữa chua YoMost mỗi ngày để khỏe và đẹp
Đã từ lâu sữa chua lên men được biết đến như là một loại thực phẩm mang lại rất nhiều lợi ích về sức khỏe, đặc biệt là tốt cho tiêu hóa, tăng khả năng hấp thụ dưỡng chất của cơ thể, nên giúp tăng cường sức đề kháng và tốt cho da. Sữa chua YoMost là một loại sữa chua ở dạng uống, được làm từ sữa chua lên men nên chứa nguyên vẹn các lợi ích cho sức khỏe kể trên. Đặc biệt, sữa chua YoMost còn kết hợp với nước trái thật, ít đường và ít béo cho nên giúp các bạn gái giữ gìn vóc dáng khỏe mạnh, cân đối và làn da mịn màng, tràn đầy sức sống.
Thêm vào đó, vì là dạng uống và được thiết kế đơn giản với hộp giấy hiện đại, sữa chua YoMost không chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng mà còn đáp ứng cả nhu cầu nhanh và tiện dụng của các bạn trẻ.
Với ba hương vị được yêu thích: Dâu ngọt ngào, Cam sôi nổi, Chanh dây trẻ trung cùng với vị “cực kool” khi dùng lạnh, sữa chua YoMost đã và đang “thăng hoa” trong các bữa ăn ngoài ở mọi lúc, mọi nơi của các bạn.
Sữa chua YoMost:
- Được làm từ sữa chua lên men, sữa chua YoMost chứa tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết từ sữa chua, tốt cho hệ tiêu hóa và sức khỏe.
- Có vị ngon tuyệt và tự nhiên hơn với sự kết hợp độc đáo của sữa chua lên men và nước trái cây.
- Sữa chua YoMost ít đường và ít béo.
- Dùng sữa chua YoMost mỗi ngày, từ 2 đến 3 hộp, giúp bạn tăng cường tiêu hóa, cơ thể khỏe mạnh và từ đó có tinh thần thoải mái, dáng vẻ đầy sức sống.
- Sữa chua YoMost có 3 hương vị: Sữa chua Dâu, Sữa chua Cam, và Sữa chua Chanh dây.
Một anh bạn người Sài Gòn đã sống nhiều năm ở miền Bắc, có một nhận xét rất thú vị rằng người Hà Nội rất bảo thủ trong cách ăn, mặc dầu sau năm 1954, đã từng sống chung với người miền Nam tập kết hơn 20 năm, vậy mà họ vẫn không học cách ăn của người Nam như ăn rắn, thịt chuột và các loài côn trùng bò sát...
Nhưng không riêng gì người Hà Nội, mà con người nói chung đều mang tính bảo thủ trong ăn uống, đó là thói quen khó sửa nhất. Không nói đến tính di truyền để hình thành khẩu vị của cả dân tộc, mà chỉ nói đến thói quen ăn uống mà ta đã hấp thu từ thời niên thiếu, khi lớn lên, dù có đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa ẩm thực khác, nhưng vẫn không quên được những khẩu vị đã được hình thành trong khung cảnh gia đình từ tấm bé. Nhất là khi đến tuổi già, những khẩu vị thời nhỏ hình như lại trỗi dậy, khiến nhiều người thường nhớ tới những món ăn mà người mẹ đã nấu cho ăn từ thuở ấu thơ, dù sau này có được người vợ khéo tay, vẫn không thể thay được những món ăn do tay mẹ làm.
Sự thật khi ta ăn một món ăn của thời niên thiếu, là ta đang tìm lại một kỷ niệm, chứ sự thật làm gì có cái thước đo mùi vị của món ăn ngày nay xem có gì khác với món ăn thời xa xưa? Và kỷ niệm đó chúng ta không bao giờ tìm lại được, vì một món ăn khi thưởng thức phải được nằm trong khung cảnh gia đình xã hội của thời đó. Làm sao phục hồi được không khí xưa? Cho nên nhiều người Việt ra sống ở nước ngoài, lấy vợ đầm, ăn cơm Tây, phải sống theo một tập tục ăn uống hoàn toàn khác lạ trong nhiều năm, khi đã về già lại cứ muốn trở về quê hương để được ăn lại những món ăn quen thuộc trước khi xa xứ thời trẻ, một bát canh rau với quả cà, một đĩa cá kho…
Quay lại với người Hà Nội, ta thấy thói quen ăn uống của người Hà thành hình như vẫn được duy trì bền vững cho dù họ đi đến tận nơi chân trời góc biển ở đâu đi nữa. Sài Gòn xưa thiếu gì những nhà hàng sang trọng, ngon lành, nhất là những tiệm ăn của người Hoa. Nhưng tại sao có một nhà hàng bé nhỏ mang dáng vẻ bình dân như quán cơm Bà Cả Đọi (cái tên lại càng dân dã nữa) lại vẫn được các nhân vật tên tuổi trong giới nghệ thuật và thượng lưu lui tới. Ở đấy người ta chỉ nấu những món ăn thuần túy của miền Bắc như canh mồng tơi, canh rau ngót, cà dầm tương, cải muối dưa, đậu phụ om… Tất nhiên, thực khách phần lớn là những người Hà Nội và người Bắc di cư nói chung. Để đến nay, quán cơm Bà Cả Đọi đã trở thành một loại hình nhà hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, có nghĩa là cơm kiểu Bắc.
Phải thừa nhận rằng trong nhiều thập kỷ qua, thói quen ăn uống của người Hà Nội đã có nhiều thay đổi, nhưng một số truyền thống cố hữu vẫn được duy trì khá bền vững. Trong bữa cơm hàng ngày của người Hà Nội, ta thấy ngoài các món rau thì thịt lợn vẫn là chủ đạo. Hãy xem các món ngon của người Hà Nội được truyền từ lâu đời như giò, chả, nem, mọc… không thể thiếu trong những bữa cỗ bàn, phần lớn đều được chế biến từ thịt lợn. Các thứ bánh của Hà Nội và của miền Bắc nói chung như bánh giò, bánh dợm, bánh chưng, bánh khúc, bánh gai, và kể cả thứ bánh ăn chơi như bánh gối… đều làm bằng nhân thịt lợn. Thảng hoặc cũng có giò bò, nhưng đấy là biến thể của giò lợn, chứ khi dọn cỗ bàn, giò lụa vẫn là món chính. Trong gia đình, đĩa thịt lợn rim hay ruốc thịt là món ăn thường xuyên dành cho trẻ nhỏ, vì người ta coi đấy là món ăn lành.
Nói đến cá, phần lớn người Hà Nội chỉ thích ăn cá nước ngọt, ít khi ăn cá biển. Có phải vì Hà Nội ở xa biển không? Nhưng rõ ràng là trong thực đơn của người Hà Nội, chỉ có mấy loại cá biển như cá thu, cá chim là còn được mua về, chứ các thứ cá khác ít khi thấy xuất hiện. Người miền Bắc có câu “chim, thu, nụ, đé” để chỉ bốn loại cá ngon nhất, nhưng hai thứ cá sau thì chắc có nhiều người chưa hề thấy mặt. Hỏi một bà nội trợ người Hà Nội gốc về các thứ cá thì chắc rằng không mấy ai có thể trả lời rành rẽ như một bà nội trợ Huế hay Quy Nhơn. Còn nhớ trong thời kỳ chiến tranh, các thứ thịt cá đều phải mua theo tem phiếu, thỉnh thoảng cửa hàng thực phẩm bán cá biển ướp đá đông lạnh, nhà nào cũng phải mua vì nếu không ăn thì cũng không có thứ thay thế. Lúc đó những người Hà Nội dù không quen vẫn cứ phải xài thứ cá tanh tưởi đó, mà toàn là những loại cá tạp như cá mối, cá đồng tiền, xương nhiều, nạc ít, lại không còn tươi. Thời đó đã qua đi, ngày nay xem lại, có còn ai ăn các thứ cá đó nữa không? Tuyệt nhiên là không.
Gần đây ở Hà Nội mọc lên một số hiệu ăn gọi là “quán Huế”, không những người gốc Huế đến ăn mà cả người Hà Nội cũng tìm đến thưởng thức. Đối với người Hà Nội thì ăn Huế kiểu gì cũng được, miễn là ngon và giá cả phải chăng. Nhưng với người gốc Huế thì khác. Lúc đầu người ta còn náo nức rủ nhau đến để tìm lại hương vị của quê hương, nhưng rồi cứ nguội dần. Nói chung ai cũng nhận xét: quán Huế mà chả ra Huế chi cả! Thật vậy, những quán Huế ở Hà Nội còn lâu mới giống được một quán ăn bình dân của xứ Huế hiện nay. Từ cọng rau thơm, đến quả ớt xanh, từ chén nước mắm đến tô nước lèo, tất cả đều khác, chả trách người Huế “bất mãn” là phải. Nhưng ở Hà Nội mà cứ làm đúng như ở Huế, hỏi có thể thu hút được khách ăn người Bắc không? Những vị cay, mùi ruốc, vị mặn đặc trưng của Huế, liệu có hợp với người Bắc không? Đứng về phía người ăn (gốc Huế) thì muốn làm cho đúng kiểu Huế xịn. Nhưng về phía nhà hàng, họ cần phục vụ cho số đông là người Bắc, hay cho một số ít người Huế sinh sống ở Hà Nội? Về điểm này ta thấy Hà Nội kém xa thành phố Hồ Chí Minh, vì ở đây ta có thể tìm thấy đủ các món ăn khắp ba miền với đúng mùi vị của chúng.
Hà Nội là trung tâm của đất nước, ngay dưới thời Pháp thuộc, đã từng là nơi quy tụ tinh hoa của cả nước. Trí thức văn nghệ sĩ khắp nơi, muốn lập nghiệp đều tìm về Hà Nội. Có biết bao nhà văn, nhà thơ, nhà báo, được coi là người Hà Nội, nhưng họ đâu phải sinh ra và lớn lên ở đây. Ấy vậy mà tinh hoa ẩm thực của cả nước lại không tìm Hà Nội làm nơi tụ hội. Người các nơi khác đến đây, buộc phải thưởng thức những món ăn của Hà Nội, chứ tìm đâu thấy bún bò Huế, mì Quảng của Quảng Nam, hủ tiếu của Sài Gòn chưa nói đến hủ tiếu Nam Vang! Bánh xèo Nam bộthì gần đây mới có, nhưng chỉ là những quán bình dân bán dọc vỉa hè, không có những cửa hàng đàng hoàng và bánh khoái Huế lại càng không có. Nhớ lại trong những năm chiến tranh, khi người miền Nam tập kết có mặt rất đông ở Hà Nội, mỗi khi nghe thấy ở Câu lạc bộ Thống Nhất có bán chè hay bún theo kiểu miền Nam thì người ta đổ xô đến để mong được tìm lại đôi chút hương vị quê hương. Vậy mà không bao giờ xuất hiện một nhà hàng nào chịu chế biến các món ăn miền Nam ở Hà Nội! Thậm chí đến tháng 4/1999, Hội đồng hương Thừa Thiên - Huế tổ chức một tuần lễ Văn hóa Huế tại Hà Nội, trong đó không thể không có một góc ẩm thực. Nếu Hà Nội thường xuyên có những quán ăn Huế thì đã không có cảnh những người Huế từ các tỉnh đem theo cả con cháu lặn lội về tận đây xếp hàng để được thưởng thức một chút hương vị của bánh bèo, bánh nậm… mà họ hằng ao ước. Hiện tượng này được giải thích như thế nào? Có phải do tính bảo thủ trong ăn uống của người Hà thành không? Cái đó để bạn đọc suy nghĩ thêm.
Quay sang các nước châu Âu, lật một cuốn sách của Pháp dạy cách làm các món ăn trên thế giới, khi nói đến món nọ món kia của châu Phi hay châu Á, người viết luôn nói rằng ở Paris chúng ta chỉ có thể tìm được những gia vị thay thế như thế này thế nọ, chứ không thể có được đầy đủ những gia vị như ở nước quê hương của các món ăn đó. Vì vậy chỉ có thể nấu một món ăn gọi là của Việt Nam, gọi là của Ấn Độ, hay của Bắc Phi, chứ không thể tạo lại hoàn toàn món ăn của xứ sở đó trên đất Pháp. Ví dụ nấu món couscous của người Bắc Phi, nhiều đầu bếp Pháp phải dùng bột nghệ thay cho safran, là một thứ gia vị màu vàng phổ biến ở các nước Ả Rập, nhưng ở Pháp thì giá rất đắt và hiếm. Còn ở Việt Nam ta, bột cari chủ yếu được chế biến từ bột nghệ chứ lấy đâu ra safran, cho nên ăn cari ở nước ta khác hẳn cari Ấn Độ hay các nước hồi giáo khác ở Đông Nam Á. Như vậy, dù không có chủ ý, người nấu tự nhiên phải thay đổi một vài khẩu vị khi đem món ăn đó ra nước ngoài. Một thanh niên Việt Nam có nhiều cửa hàng ăn ở Cộng hòa Liên bang Đức đã từng nói với tôi rằng: bên đó cơm Việt Nam rất được khách hàng ưa chuộng, nhưng khi làm cơm rang, phải chiều theo khẩu vị của một bộ phận người nhập cư rất đông là Thổ Nhĩ Kỳ, cho nên phải rắc bột nghệ (chính ra là dùng safran) để có màu vàng như cơm của người Hồi giáo.
Do vậy nói đến giữ gìn bản sắc ăn uống của dân tộc, là nói đến việc giữ gìn những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật ẩm thực dân tộc, chứ không phải là phục hồi lại nguyên vẹn các món ăn xưa, theo đúng khẩu vị xưa. Vì ngay trong một vùng, việc ăn uống cũng biến đổi theo thời gian, chứ chưa nói đưa ra nước khác. Trong Hà Nội băm mươi sáu phố phường (1943), nhà văn Thạch Lam đã từng viết: “Chắc nhiều bạn đọc còn nhớ cái thứ bánh đậu Hải Dương, đã nổi tiếng, mà ngày bé, chúng ta thường nhận được do tay bà mẹ đã đi đâu một chuyến xa về? Cái thứ bánh đậu khô, bột nhỏ như phấn, đóng hình vuông, có in dấu một hai chữ triện. Thuở nhỏ, chúng ta thích ăn thức quà ấy lắm, nhưng nếu chúng ta mắc bệnh ho, thì không khỏi lắm lúc bực mình. Miếng bánh vừa bỏ mồm chưa kịp nuốt, một cơn ho đã làm bật ra ngoài như làn khói... Mắt chỉ còn tiếc ngẩn ngơ nhìn.
Bây giờ thứ bánh đậu Hải Dương ấy không còn nữa. Có lẽ người ta thấy cái bất tiện của bột khô cho các trẻ bé và cho các ông cụ già. Ở Hà Nội, người ta làm một thứ bánh đậu ngon hơn, đó là một thứ bánh đậu ướt, thứ bánh đậu có mỡ. Một thứ bánh để ăn trong khi uống chè Tàu, cái vị béo ngọt của bánh rất ăn với cái vị đắng của nước chè.”
Nếu bạn muốn đi tìm lại thứ bánh đậu khô đó thì hãy vào Huế. Vì ở Huế vẫn còn sản xuất thứ bánh đậu khô làm bằng đậu xanh hay đậu quyên mà Thạch Lam đã nói đến, nhưng lại gọi là bánh in.
Nói tóm lại, trong ăn uống có mặt bảo thủ của khẩu vị, của lối ăn, của thức ăn, nhưng đồng thời vẫn có sự thay đổi dần dần của khẩu vị tập thể. Trong thời đại toàn cầu hóa, cách ăn uống của chúng ta cũng phải thay đổi cho thích hợp với nhịp sống và làm việc của thời hiện đại. Trong kinh doanh ăn uống, nhiều món ăn mới được sáng tạo nhưng vẫn được phát triển trong dòng văn hóa ăn uống của người Việt. Nhưng biết nói thế nào, khi về mặt ẩm thực, Hà Nội vẫn còn chậm chân trong việc đa dạng hóa các món ăn. Để rồi việc vinh danh các món ăn truyền thống Việt lại phải để cho các đầu bếp… người Pháp đến lập nghiệp tại Hà Nội ở những nhà hàng và khách sạn lớn, giới thiệu trên hệ thống truyền thông.
Nghiên cứu được tiến hành với Mục tiêu: Đánh giá thực trạng khẩu phần, thói quen ăn uống của người tăng acid uric máu và bệnh nhân gout. Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang, mô tả có phân tích. Đối tượng nghiên cứu: 150 người mắc bệnh gout từ 40 đến 70 tuổi (ít nhất có hai đợt điều trị gout cấp). 150 người không bị gout (bình thường) - có acid uric máu trong giới hạn bình thường. 50 người từ 40-70 tuổi có acid uric máu tăng. Kết quả cho thấy:
1 Nhóm tăng acid uric máu có tần xuất tiêu thụ hàng ngày và trên 3 lần/tuần các thực phẩm giàu purin như phủ tạng, bia/rượu nhiều hơn nhóm người không bị bệnh (p<0,05).
-Nhóm tăng acid uric máu có mức tiêu thụ trung bình/ngày về cá, hải sản, bia/rượu nhiều hơn nhóm chứng (không tăng acid uric máu) có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm của nhóm tăng acid uric máu và nhóm không bị bệnh , khác nhau không có ý nghĩa thống kê về gạo, lương thực khác, thịt, trứng/sữa, đậu đỗ, đậu phụ, vừng/lạc, dầu/, mỡ, rau xanh, quả chín.
2. Nhóm bệnh gout có tần xuất tiêu thụ trên 3 lần/tuần các thực phẩm giàu purin như thịt nạc các loại, phủ tạng, cá và hải sản, đậu đỗ, đậu phụ, bia/rượu nhiều hơn nhóm không bị bệnh (p<0,05, p<0,01, p<0,001).
- Ở nhóm bệnh gout mức tiêu thụ trung bình/ngày về gạo, thịt, dầu/mỡ thấp hơn nhóm không bị bệnh và mức tiêu thụ quả chín nhiều hơn nhóm không bị bệnh , sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mức tiêu thụ các thực phẩm như cá, hải sản, đậu phụ, rau, đường mật ở nhóm bệnh nhiều hơn nhóm không bị bệnh , sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Mức tiêu thụ đậu đỗ, trứng sữa, vừng/lạc, bia/rượu ở nhóm bệnh Gout thấp hơn nhóm không bị bệnh , sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê
(ST).