Thụ thai

 THỤ THAI VÀ SINH ĐẺ

Khả năng sinh đẻ là khả năng có em bé và thụ thai là bước đầu đi vào tiến trình thai nghén. Trong giao hợp giới tính, hàng triệu tinh trùng được phóng vào âm đạo. Trong trường hợp trứng đã rụng, chất nhớt ở cổ tử cung trở nên lỏng hơn để cho tinh trùng có thể bơi ngược âm đạo qua cổ tử cung. Chỉ có khoảng 2.000 tinh trùng tới được tử cung và Vòi Fallope và chỉ có duy nhất một trong số các tinh trùng chịu sức hút có tính cách hóa học này mới bám được lên bề mặt của trứng tương đối to lơn và chọc thủng được vỏ ngoài. Phần còn lại mất đi sức hút, rơi rụng và chết đi. Lúc đó tiên trình thụ tinh diễn ra chủ yếu là do sức mạnh, sự quyết tâm và sức tồn tại của tinh trùng.

Thụ thai thường là một sự kiện có khá nhiều diễn biến đối với cơ thể một người phụ nữ. Buồng trứng không ngưng đối với cơ thể một người phụ nữ. Buồng trứng không ngưng sản xuất hormone như nó thường làm trong trường hợp không xảy ra tiến trình thụ thai. Ngược lại, nó tiếp tụ gia tăng mức nồng độ hormone nữ để chuẩn bị lớp lót cho tử cung và hỗ trợ cho cuộc thai nghén cho đến khi bánh nhau có khả năng nối nghiệp. Sự việc này có thể sản sinh ra những triệu chứng ốm nghén (buồn nôn vào buổi sáng), choáng váng, ngất xỉu, vú đau và tê tê, cảm giác vị tanh trong miệng hay mắc tiểu.

KHẢ NĂNG SINH ĐẺ

Khả năng sinh đẻ tùy thuộc vào nhiều yếu tố nhưng yếu tố quyết định nhất, ngay cả với một phụ nữ đang rụng trứng, khả năng sinh đẻ cũng chỉ xảy ra trong 2 – 3 ngày mỗi tháng thôi. Tình trạng vô sinh hay hiếm muộn (trong trường hợp này các hàng rào ngăn cản tiến trình thụ thai có thể khắc phụ được bằng cách này hay cách khác, về mặt y khoa hay tâm lý) thường không phải do lỗi của riêng vợ hoặc chồng. Hai người cùng có khả năng có con có thể thất bại trong việc thụ thai với nhau, nhưng trong một mối duyên mới, khả năng sinh sản của người bạn mới có thể bù trừ cho khả năng bản thân họ và họ vẫn có thể thụ thai.

Tuổi của phụ nữ là một yếu tố có ý nghĩa trong khả năng sinh đẻ. Khả năng sinh đẻ hoàn hảo nhất của một người phụ nữ là vào khoảng tuổi 24, và cũng tương tự như đối với đàn ông. Sau 30 tuổi có một sự suy thoái rõ rệt, và sau 50 tuổi, với phụ nữ, sự thụ thai là điều hiếm có, dù không phải là không thể có được. Tuổi càng cao, trứng càng rụng ít hơn, và nửa sau của chu kỳ trở nên thất thường vào những năm gần tới tuổi mãn kinh. Vì thế, dù có được thụ tinh, môi trường tử cung có thể kém thuận lợi và trứng có ít cơ may tồn tại hơn. Mọi hình thức hoạt động tình dục ở đàn ông bắt đầu sụt giảm ngay từ những năm đầu của độ tuổi 20, tuy nhiên sự sụt giảm ở họ không quá nhanh như với phụ nữ. Người ta đã ghi nhận, ở tuổi 94, đàn ông vẫn có khả năng có con.

TÍNH TOÁN THỜI GIAN GIAO HỢP

Một yếu tố quyết định duy nhất để đảm bảo cho sự thụ tinh đó là thực hiện giao hợp xê xích khoảng 1 ngày so với lúc rụng trứng. Việc này có thể tính toán căn cứ vào chu kỳ kinh nguyệt, biểu đồ nhiệt độ và trạng thái các tiết dịch âm đạo của bạn.

Có phải thụ thai sẽ chắc chắn hơn nếu bạn giao hợp thường xuyên hơn không? Điều này không đúng. Phải làm ngược lại. Một người đàn ông càng xuất tinh nhiều lần chừng nào, thì số tinh trùng trong tinh dịch phóng ra càng ít đi bấy nhiêu. Điều nên làm là tiết dục trong vài ngày trước khi trứng rụng để tích lũy được nhiều tinh trùng.

CÁC GIEN QUYẾT ĐỊNH GIỚI TÍNH RA SAO?

Một trứng chứa đựng một nửa chất liệu di truyền của cái thai tương lai. Khi được thụ tinh, trứng tiếp nhận nửa chất liệu kia từ tinh trùng. Giới tính của đứa con được quyết định chủ yếu là từ tinh trùng của người cha. Cả tinh trùng X (nữ) lẫn Y (nam) đều được sản xuất ra. Trứng thì bao giờ cũng là X. Trong trường hợp một tinh trùng X hợp nhất với trứng, đứa trẻ sẽ là nữ, nếu tinh trùng Y hợp nhất với trứng, đứa trẻ sẽ là nam. Ngoài cặp nhiễm sắc thể giới tính, có 22 cặp nhiễm sắc thể khác hàm chứa chất liệu di truyền như màu tóc và mắt chẳng hạn. Khuynh hướng thừa hưởng một số chứng bệnh nào đó, như bệnh “mù màu sắc” chẳng hạn cũng được gien chuyển tải.

Các đặc điểm về thể chất và các bệnh tật được thừa hưởng dưới dạng trội hay dạng ẩn. Dạng trội bao giờ cũng sẽ quyết định loại đặc điểm này; Thí dụ, màu mắt xanh có tính ẩn và sẽ không xuất hiện nếu như tinh trùng hoặc trứng chuyển tải đặc điểm trội của màu mắt nâu. Thế cho nên hai vợ chồng mắt nâu thường có con mắt nâu, trừ phi có một gien mắt xanh dạng ẩn tồn tại ở cả hai người. Một gien lép có thể nằm tiềm ẩn trong nhiều thế hệ.

Lúc thụ thai là lúc giới tính đã được quyết định. Nếu tinh trùng mang một nhiễm sắc thể X, em bé sẽ là con gái. Nếu đó là một nhiễm sắc thể Y, em bé là con trai. Trứng chỉ mang có nhiễm sắc thể X thôi.

Khi nang trứng bung ra giải phóng trứng vào thời rụng trứng - thường khoảng 14 ngày trước ngày thấy kinh đầu tiên - trứng lọt vào đầu vòi Fallope và được các động tác co cơ đẩy tới, hướng về tử cung.

Nếu có giao hợp, tinh trùng nào mau lẹ nhất, khỏe nhất, lành mạnh nhất sẽ bơi ngược lên thượng lưu vòi. Tuổi thọ của trứng có thể đến 36 giờ và của tinh trùng khoảng 24 giờ. Như vậy có nghĩa là giai đoạn thụ tinh sẽ chỉ có thể xảy ra trong khoảng 3 ngày.

Lập tức ngay sau khi được thụ tinh, trứng đã thụ tinh bắt đầu phân chia cho đến khi hình thành một trái cầu tế bào. Người ta gọi trái cầu này là phôi bào.

Phôi bào tiếp tục cuộc hành trình xuôi vòi Fallope xuống tử cung.

Bảy ngày sau khi thụ tinh, phôi bào tới tử cung nơi nó thường cắm chặt vào nóc phần ba phía trên của vách tử cung. Tiến trình thụ thai đã xảy ra.

Vì trứng có sức hút hóa học đối với mọi tinh trùng, tin trùng mạnh nhất sẽ làm trứng thụ tinh, các tinh trùng còn lại sẽ chết.