Thực phẩm chữa bệnh sỏi mật giúp bệnh nhanh khỏi

Thực phẩm chữa bệnh sỏi mật giúp bệnh nhanh khỏi. Người bị sỏi mật nên hạn chế ăn mỡ vì chất này ảnh hưởng đến chức năng gan, mật và dạ dày. Khi ăn nhiều mỡ, mật xuống ruột không đều, kích thích túi mật co bóp quá mạnh, một phần mật tham gia cùng cholesterol tạo sỏi.






THỰC PHẨM CHỮA BỆNH SỎI MẬT
Chế độ ăn chữa bệnh sỏi mật


Bệnh sỏi mật gặp nhiều ở nữ hơn nam và có xu hướng tăng dần theo tuổi. Nguyên nhân gây ra sỏi mật là bệnh viêm túi mật mãn tính, ứ đọng mật và nhiễm trùng túi mật. Hiện tượng táo bón cũng tạo ra cơ hội cho vi trùng đường ruột phát triển, dẫn đến viêm tá tràng, túi mật và ống mật, do đó nó làm cho mật dễ lắng xuống thành sỏi. Sỏi mật có 2 loại:

Sỏi sắc tố mật: Loại này ít gặp.
Sỏi cholesterol: Thường đi đôi với tình trạng cholesterol cao trong máu. Cholesterol dễ gây sỏi nếu nó có các chất béo khác kèm theo, thường gắn liền với tình trạng béo phì. Theo nghiên cứu của Đại học Kentucky (Mỹ), béo phì là một yếu tố nguy cơ quan trọng gây bệnh sỏi túi mật. Theo dõi trong 15 năm cho thấy, 3.200 trong tổng số 42.000 phụ nữ béo phải mổ sỏi mật. Người có vòng eo hơn 91,5 cm nguy cơ mổ lấy sỏi mật cao gấp đôi người có vòng eo dưới 66 cm.

Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Bệnh viện Việt Đức, gần 42% bệnh nhân sỏi mật có béo phì.

Chế độ ăn chữa bệnh sỏi mật

Giảm mỡ: Cần hạn chế các thực phẩm cholesterol như phủ tạng động vật, trứng

Tăng đạm để tăng tạo tế bào gan đã bị tổn thương, chống thoái hóa mỡ tế bào gan.

Giàu đường bột: Thức ăn này dễ tiêu, lại không ảnh hưởng đến mật. Nhiều chất xơ lại giúp tiêu hóa tốt tránh táo bón.

Giàu vitamin C và nhóm B (để tăng chuyển hóa chất mỡ và đường bột). Dùng rau và hoa quả tươi rất tốt.

Tỷ lệ giữa các chất dinh dưỡng đạm, mỡ, đường ở người trưởng thành bình thường là 1/0,75/5 còn ở người bị sỏi mật nên là 1/0,5/5.

Thức ăn không nên dùng: Trà, cà phê, cacao, chocolate; thịt cá nhiều mỡ, dầu cọ, dầu dừa, phủ tạng động vật. Hạn chế ăn lòng đỏ trứng.

Thức ăn nên dùng: Nước quả, hoa quả tươi các loại, rau tươi, bánh kẹo ít trứng bơ, các loại thịt cá nạc như nạc thăn lợn, thịt bò, cá quả, cá chép, các loại đậu đỗ như đậu tương, đậu xanh, đậu đen. Ngoài ra có một số thức ăn lợi mật như nghệ, lá chanh, có thể dùng được.

Để kích thích túi mật co bóp nhẹ nhàng, có thể dùng một ít chất béo dễ tiêu như bơ rồi đến dầu thảo mộc sống, mỡ gà vịt.

Thực phẩm của người sỏi mật

Ăn nhiều rau quả ngừa được sỏi mật

Sỏi mật là bệnh gặp ở mọi nơi, mọi lứa tuổi, ở cả nam và nữ. Việc điều trị bệnh khá phức tạp cho dù đã có máy móc hiện đại. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu gần đây, ăn uống theo chế độ nhiều rau ít thịt có thể giúp bạn ngăn chặn được bệnh này.









Trong một nghiên cứu kéo dài 14 năm, tiến sĩ Chung-Jyi Tsai và cộng sự tại Đại học Kentucky (Mỹ) đã theo dõi 45.000 nam giới ở độ tuổi trung niên trở lên. Tất cả được chẩn đoán là không bị sỏi mật vào thời điểm bắt đầu tiến hành nghiên cứu.

"Trong các thí nghiệm trên động vật, các chất béo chưa bão hòa có khả năng ngăn chặn sự hình thành sỏi mật nhiều hơn so với chất béo hòa tan. Giờ đây, chúng tôi đang kiểm tra điều này trên cơ thể người", Chung-Jyi Tsai nói.

Các chuyên gia yêu cầu những người tham gia trả lời 131 câu hỏi về thói quen ăn uống vào năm 1986. Sau đó, cứ 2 năm một lần họ lại phải trả lời những câu hỏi tương tự. Trong suốt 14 năm, các nhà nghiên cứu liên tục hỏi họ có bị sỏi mật hay không.

Kết quả cho thấy có 20% đối tượng tham gia nghiên cứu thường xuyên ăn chất béo chưa bão hòa. Khẩu phần ăn hằng ngày của họ chủ yếu là rau quả và dầu thực vật. Trong khi đó, số người thường xuyên tiêu thụ chất béo bão hòa cũng chiếm 20%. Ở những người chủ yếu dùng chất béo không bão hòa, nguy cơ hình thành sỏi mật giảm 18% so với đối tượng kia.

"Có nhiều yếu tố quyết định việc hình thành sỏi mật: hút thuốc, uống rượu, lười vận động cơ thể, sinh đẻ nhiều lần và thừa cân. Tuy nhiên, việc dùng chất béo bão hòa có mối quan hệ hoàn toàn độc lập với sự xuất hiện sỏi mật, không phụ thuộc vào các yếu tố khác", Tsai tuyên bố.

Theo các nhà nghiên cứu thì ở cấp độ phân tử, lượng chất béo mà chúng ta lấy vào cơ thể có thể gây tác động đến việc hình thành sỏi mật bằng nhiều cách. Chẳng hạn, khi lượng chất béo ở một số tế bào tăng lên, chúng sẽ trở nên nhạy cảm với insulin - chất có tác dụng làm giảm sự hình thành sỏi mật. Ngoài ra, chất béo bão hòa có chứa nhiều cholesterol, chất có vai trò quan trọng trong việc hình thành sỏi mật.

Phát hiện này đã ủng hộ những kết quả của một số nghiên cứu trước đây. Đó là một nghiên cứu của các nhà khoa học Hy Lạp cho thấy việc dùng nhiều dầu ô liu, vốn chứa nhiều chất béo chưa bão hòa có tên axit oleic, có thể làm giảm xác suất bị sỏi mật.

Một nghiên cứu khác vào năm 1995 của các nhà khoa học Israel và Ảrập phát hiện thấy người Ảrập ăn nhiều chất béo chưa bão hòa nhiều hơn các dân tộc khác trên thế giới và có tỷ lệ bị sỏi mật thấp hơn.

Chế độ ăn uống, kiêng kị cho người bị mắc bệnh sỏi mật

Người bị sỏi mật nên hạn chế ăn mỡ vì chất này ảnh hưởng đến chức năng gan, mật và dạ dày. Khi ăn nhiều mỡ, mật xuống ruột không đều, kích thích túi mật co bóp quá mạnh, một phần mật tham gia cùng cholesterol tạo sỏi.








Bệnh sỏi mật gặp nhiều ở nữ hơn nam và có xu hướng tăng dần theo tuổi. Nguyên nhân gây ra sỏi mật là bệnh viêm túi mật mãn tính, ứ đọng mật và nhiễm trùng túi mật. Hiện tượng táo bón cũng tạo ra cơ hội cho vi trùng đường ruột phát triển, dẫn đến viêm tá tràng, túi mật và ống mật, do đó nó làm cho mật dễ lắng xuống thành sỏi. Sỏi mật có 2 loại:

Sỏi sắc tố mật:Loại này ít gặp.

Sỏi cholesterol: Thường đi đôi với tình trạng cholesterol cao trong máu. Cholesterol dễ gây sỏi nếu nó có các chất béo khác kèm theo, thường gắn liền với tình trạng béo phì. Theo nghiên cứu của Đại học Kentucky (Mỹ), béo phì là một yếu tố nguy cơ quan trọng gây bệnh sỏi túi mật. Theo dõi trong 15 năm cho thấy, 3.200 trong tổng số 42.000 phụ nữ béo phải mổ sỏi mật. Người có vòng eo hơn 91,5 cm nguy cơ mổ lấy sỏi mật cao gấp đôi người có vòng eo dưới 66 cm.

Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Bệnh viện Việt Đức, gần 42% bệnh nhân sỏi mật có béo phì.

Bị sỏi mật thì ăn uống thế nào?

Giảm mỡ: Cần hạn chế các thực phẩm cholesterol như phủ tạng động vật, trứng

Tăng đạm để tăng tạo tế bào gan đã bị tổn thương, chống thoái hóa mỡ tế bào gan.

Giàu đường bột: Thức ăn này dễ tiêu, lại không ảnh hưởng đến mật. Nhiều chất xơ lại giúp tiêu hóa tốt tránh táo bón.

Giàu vitamin C và nhóm B(để tăng chuyển hóa chất mỡ và đường bột). Dùng rau và hoa quả tươi rất tốt.

Tỷ lệ giữa các chất dinh dưỡng đạm, mỡ, đường ở người trưởng thành bình thường là 1/0,75/5 còn ở người bị sỏi mật nên là 1/0,5/5.

Thức ăn không nên dùng: Trà, cà phê, cacao, chocolate; thịt cá nhiều mỡ, dầu cọ, dầu dừa, phủ tạng động vật. Hạn chế ăn lòng đỏ trứng.

Thức ăn nên dùng: Nước quả, hoa quả tươi các loại, rau tươi, bánh kẹo ít trứng bơ, các loại thịt cá nạc như nạc thăn lợn, thịt bò, cá quả, cá chép, các loại đậu đỗ như đậu tương, đậu xanh, đậu đen. Ngoài ra có một số thức ăn lợi mật như nghệ, lá chanh, có thể dùng được.

Để kích thích túi mật co bóp nhẹ nhàng, có thể dùng một ít chất béo dễ tiêu như bơ rồi đến dầu thảo mộc sống, mỡ gà vịt.


Đông y trị sỏi mật








Sỏi mật có thể chia thành hai loại dựa trên thành phần cấu trúc của nó đó là sỏi cholesterone và sỏi sắc tố mật. Sỏi có cấu tạo cholesterone là do người bệnh thường hay ăn nhiều mỡ động vật khiến cho nồng độ cholesterone trong máu trở nên cao đã tạo điều kiện mà hình thành nên sỏi. Còn loại sỏi có kết cấu từ sắc tố mật (bilirubine) thường do trong quá trình đường mật bị viêm nhiễm đã làm rơi rụng những tế bào thượng bì kết hợp với vi khuẩn hay giun đũa, trứng giun rồi được bilirubine kết dính chúng lại với nhau mà hình thành nên hạch tâm của sỏi.

Bệnh chứng được biểu hiện như đau tại vùng hạ sườn phải (vùng gan), khi mắc sỏi mật thường kèm theo viêm túi mật hay ống mật (đường dẫn mật), nên thấy xuất hiện các triệu chứng tùy thuộc vào vị trí, kích thước sỏi to hay nhỏ và biến chứng của bệnh.

 Phương thức trị liệu tùy thuộc vào thể bệnh mà có phương thuốc sao cho tương thích nhằm đạt được hiệu quả cao. Dưới đây là những phương cụ thể để có thể chọn lựa.

* Trị sỏi mật viêm túi mật thể khí uất dùng phương “Bài thạch thang ngũ hiệu” gồm Kim tiền thảo 30g, Chỉ xác 9g, Hoàng cầm 9g, Mộc hương 9g, Xuyên luyện tử 9g, Đại hoàng 6g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần. Sau khi sử dụng phương này có thể gây đau dữ dội hơn do sỏi ra. Phương này có thể sử dụng cho những người sau mổ lấy sỏi còn sót, cũng có tác dụng tống sỏi ra tiếp nên thường đau là do dấu hiệu bài sỏi của phương.

* Trị sỏi to: Phép trị là “Nhuyễn kiên bài sỏi” kết hợp với phương “Tiêu dao tán”, cụ thể như sau:

- Phép nhuyễn kiên bài sỏi: gồm Mang tiêu 12g – 16g, Phàn thạch (Lục phàn) 2 – 4g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần, chiêu với nước cháo Đại mạch.

- Kết hợp Tiêu dao tán gồm Mang tiêu 10g, Hải kim sa 10g, Kim tiền thảo 30g, Hoạt thạch 12g, Trạch tả 10g, Sa tiền 15g, Ý dĩ 20g, Xuyên luyện 10g, Uất kim 10g, Hồ trượng 10g, Sài hồ 10g, Bạch thược 15g.

Thuốc tán ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g.

* Đối với sỏi nhỏ (hơn 1li) sỏi ở ống dẫn mật chính (choledoque): Dùng phép trị là Thanh nhiệt lợi thấp, hành khí chỉ thống: Kim tiền thảo 40g, Nhân trần 12g, Uất kim 12g, Chỉ xác 12g, Mộc hương 12g, sinh địa hoàng 12g, Trạch tả 40g.

Thuốc tán ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g, thuốc sắc ngày uống 2 – 3 lần. Kết hợp châm cứu các huyệt Ủy trung, Thừa sơn, Thái xung, Tam âm giao, Huyền chung.

* Trị sỏi mật: Dùng “Hoàng kim linh thang” (Tứ Xuyên trung y 1986) tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, hóa ứ, bài thạch, trị sỏi mật, gồm Đại hoàng 5 – 30g, Hoàng cầm 15g, Khương hoàng 10 – 20g, Uất kim 20 – 60g, Kim tiền thảo 20 – 40g, Kim ngân hoa 15 – 30g, Kê nội kim (tán nhuyễn uống với nước thuốc sắc) 12g, Uy linh tiên 20 – 60g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần trong ngày.

* Trị sỏi mật, túi mật viêm mạn: Dùng “Lợi đởm bài thạch thang” (Tứ Xuyên Trung y 1986) gồm Sài hồ 15g, Hoàng cầm 10g, Liên kiều 10g, Hổ trương căn 15g, Kim tiền thảo 30g, Nguyên minh phần 10g (uống với nước thuốc sắc), Đan sâm 15g, Hồng hoa 10g, Hoạt thạch 20g, Sơn tra 15g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần vào lúc đói.

* Trị viêm mãn: Triệu chứng đầy bụng, có cảm giác khó chịu ở bụng trên, đau kéo dài, hoặc đau lan lên bả vai, cảm giác nóng ruột, ợ hơi, mỏi mệt nhất là khi sau ăn cơm no hoặc ăn những thứ xào rán, mỡ nhiều.

Phương gồm Bột uất kim 3g, Một dược 3g, Nhân trần 30g, Kim tiền thảo 30g, Trạch tả 40g. Kim tiền thảo cùng sắc nước uống với bột Uất kim và Một dược. Lưu ý cần xoa hai bên sườn vào sáng và tối. Kiêng rượu và các chế phẩm có rượu, gia vị cay nóng đậm đặc, mỡ động vật…

Ngoài các phương thuốc Đông y trị liệu kể trên có thể kết hợp ăn nấm hoặc uống nước hãm nấm Linh chi thường xuyên hoặc uống từng đợt bột nghệ cũng có công hiệu hỗ trợ tích cực trị chứng sỏi mật.

Thuốc điều trị bệnh sỏi mật

Phân loại

Sỏi mật có nhiều loại:

Sỏi cholesterol: Tạo thành khi có rối loạn về cholesterol, acid mật, lecithin (như gia tăng dị hoá cholesterol gan, ăn nhiều thức ăn giàu cholesterol, giảm biến đổi cholesterol thành acid mật). Có nhiều yếu tố thúc đẩy sự hình thành sỏi: tuổi, giới (nữ gấp 3 lần nam), chủng tộc, gia đình, bệnh tật (béo phì), thuốc (ngừa thai, hạ mỡ máu) ăn uống (quá thừa năng lượng).

Sỏi sắc tố mật: Tạo thành khi nồng độ bilirubin không liên hợp trong mật gia tăng. Đây là trường hợp huyết tán trong xơ gan. Sỏi có màu đen. Hoặc hình thành do hậu quả của giun chui ống mật hay nhiễm khuẩn đường ruột. Sỏi có màu nâu.

Sỏi muối mật: Tạo thành do kết tinh muối mật. Có màu đỏ, dễ kết hợp với calci.

Thuốc dùng trong sỏi mật

Gồm các thuốc: giảm đau, làm tan sỏi, điều trị biến chứng

Thuốc giảm đau: Nguyên nhân gây đau là do sỏi gây co thắt đường dẫn mật, túi mật. Điều trị giảm đau bằng các thuốc chống co thắt cơ trơn với cơ chế có vài điểm khác nhau:

- Các thuốc giảm đau có tác dụng hướng cơ: có tác dụng huỷ các co thắt sinh ra do chất trung gian hoá học acetylcholin (kháng cholinergic), nên có tác dụng giảm đau như alverin, atropin.  - Papaverin chống co thắt cơ trơn theo hai cơ chế: ức chế phosphoryl hoá (do ôxy hoá) và cản trở  co cơ do calci (chẹn calci), tác dụng trực tiếp lên cơ, không lệ thuộc vào hệ thần kinh ở cơ. Mặc dù là alcaloid của thuốc phiện, nhưng papaverin ít có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương (trừ khi dùng liều quá cao).

- Visceralgin (tiemonium) chống co thắt cơ trơn. Người bệnh có thể tự dùng thuốc này để giảm đau bước đầu (tránh choáng). Nhưng không vì đỡ đau mà nấn ná không đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh. Nếu đến muộn dễ bị các biến chứng gây khó khăn thêm cho việc điều trị sau này. Không dùng các loại thuốc giảm đau họ thuốc phiện (làm hết đau song làm mất hết các triệu chứng đặc trưng gây khó khăn cho chẩn đoán).

Thuốc làm tan sỏi:

- Acid ursodesoxycholic (ursodiol): Là thành phần của sinh lý mật, có tác dụng  hoà tan sỏi cholesterol do giảm luồng mật của cholesterol, từ đó làm thay đổi tỷ số phospholipid và acid mật trên cholesterol. Thuốc chỉ dùng khi sỏi mật ít, không có triệu chứng, không bị calci hoá, sỏi có đường kính nhỏ hơn 20mm cho những người từ chối hay có chống chỉ định cắt bỏ túi mật hoặc có khuynh hướng gia tăng nguy cơ trong lúc phẫu thuật. Còn dùng trong dự phòng sỏi mật ở người béo phì đang dùng cách giảm cân nhanh, trong bệnh gan ứ mật mạn (đặc biệt là xơ nang mật sơ phát, viêm đường mật xơ cứng). Không dùng trong trường hợp sỏi mật bị calci hoá, cản tia Xquang, trường hợp bắt buộc phải cắt bỏ túi mật, trường hợp có thai, cho con bú. Thận trọng với người  có các chứng gan, đường ruột. Lúc mới bắt đầu và sau đó định kỳ mỗi 6 tháng cần kiểm tra các enzym gan (transaminase, phosphatase kiềm). Nếu các enzym gan tăng cao dai dẳng thì phải tạm ngưng thuốc. Trong quá trình dùng cần kiểm tra tiến triển sỏi mật (chụp túi mật sau 6 tháng điều trị). Làm âm vang đồ (sonogram)  vào tháng thứ 6 và 12. Sau khi sỏi tan hoàn toàn cần làm lại xét nghiệm âm vang đồ 2 lần nữa vào tháng thứ 1 và thứ 3 rồi mới ngưng thuốc. Sỏi mật có thể tái phát. Thuốc có thể gây tiêu chảy, giảm bạch cầu, phát ban, vài triệu chứng đường ruột, tăng creatinin, tăng glucose máu. Không dùng chung với estrogen, thuốc ngừa thai, các thuốc làm hạ lipid khác (chlofibrat, cholestyramin)  vì chúng làm giảm hiệu lực của thuốc (do tăng tiết cholesterol vào gan).

Ngoài ursodiol còn có nhiều tên khác (actigall, arsacol, delursan, destolit, uso, ursolvan) có nhiều hàm lượng  100-150-200-250mg. Cần chú ý khi dùng để tránh nhầm hàm lượng.

- Acid chenodesoxychlolic làm cho sỏi cholesterol tan từ từ. Chỉ định và chống chỉ đinh tương tự như acid ursodesoxycholic

Thuốc chữa biến chứng:  Sỏi mật thường có một số biến chứng: viêm nhiễm khuẩn đường mật, túi mật cấp, hoại tử túi mật, thấm mật vào phủ tạng, rất  nguy hiểm, để lại hậu quả nặng nề phải can thiệp bằng ngoại khoa. Rò đường mật (sỏi làm thủng đường dẫn mật làm cho mật  chảy vào các tạng bên trong ổ bụng. Ứ nước túi mật (do sỏi mật làm tắc ống túi mật mạn tính). Xơ gan do ứ mật: (do ứ mật lâu ngày kèm viêm nhiễm làm tổn thương nhu mô gan.) Thuốc điều trị các biến chứng bao gồm:

- Kháng khuẩn thường dùng là aminogycosid và quinolon.

- Lợi mật thường dùng là hoá dược hay là các thảo dược (actichaut).

Sỏi đường mật thường gây nên những biến chứng rất nguy hiểm ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe, người bệnh cần khám tại nơi có đủ điều kiện để xác định có bị sỏi mật hay không, thuộc loại nào, ở mức độ nào thầy thuốc mới cho dùng thuốc hay can thiệp ngoại khoa. Tránh chậm trễ,  dùng thuốc tuỳ tiện.





Tác dụng chữa bệnh của mật gấu
Tác dụng chữa bệnh của quả đu đủ xanh
Cây chó đẻ có tác dụng chữa bệnh gì?
Chữa đau dạ dày bằng nghệ và mật ong cực hiệu
Cây thuốc chữa bệnh sỏi thận cực hiệu quả
Tác dụng chữa bệnh của củ cải thắng
Tác dụng chữa bệnh của cây kim tiền thảo -



(ST)