Trang phục truyền thống của dân tộc Ba Na



Sống giữa núi rừng bạt ngàn, những đường nét trong trang phục của người Ba na đều như hòa quyện cùng với thiên nhiên, mang hơi thở đại ngàn. Chúng ta cùng chiêm ngưỡng trang phục truyền thống của dân tộc Ba Na nhé!



TRANG PHỤC BA NA - HƠI THỞ ĐẠI NGÀN


Khác với trang phục của nhiều dân tộc khác, trang phục của người Ba na rất giản dị với những đường nét khỏe khoắn nhưng không kém phần duyên dáng.
Đàn ông mặc áo chui đầu, cổ xẻ, hở ngực, cộc tay, đóng khố hình chữ T. Phụ nữ mặc áo chui đầu, không xẻ cổ kết hợp với váy. Váy của phụ nữa Ba Na không được may lại mà nó chỉ là một tấm vải đen được quấn quanh thân dưới. Trong các ngày lễ, trang phục của người Ba na có phần sặc sỡ hơn.
Ngay từ thời xa xưa, người Ba na đã biết trồng bông, dệt vải để tạo ra những tấm vải thổ cẩm bền đẹp. Không chỉ vậy, người Ba na còn biết tạo ra mùi hương đặc biệt cho trang phục của mình. Sau khi quay tơi những sợi bông ra, những người phụ nữ Ba Na lấy mật ong để làm mềm vải và tạo ra hương thơm nhẹ nhàng không lẫn vào trang phục các dân tộc khác.
Trong trang phục, chính các họa tiết làm nên sự độc đáo. Với lối tư duy đơn giản, các họa tiết trong trang phục của người Ba na là những hình khối đối xứng mang tính biểu tượng cao. Họa tiết đối xứng phản ánh quan niệm về vũ trụ, trời - đất, âm - dương lấy thiên nhiên làm hình mẫu. Mỗi tấm thổ cẩm được làm ra là một bức tranh thiên nhiên thu nhỏ từ những nét cách điệu hình học.
Để làm nên sự độc đáo, tươi mới cho trang phục của mình, người Ba Na luôn tỉ mẩn, khéo léo trong cách chọn và phối hợp màu sắc.
Họ nhuộm vải bằng màu mực của các loại cây rừng. Mỗi màu sắc đều mang một ý nghĩa riêng, một tiếng nói riêng . Màu đen được nhuộm bằng lá cây chàm, cây mô, thường là màu nền của mỗi tấm vải, biểu hiện cho đất đai, cho sự nảy mầm từ mặt đất, độ che phủ của cây rừng mà suốt cả cuộc đời con người phải gắn chặt với nó kể cả khi họ đã trút hơi thở cuối cùng. Theo quan niệm của người Ba Na, màu đen là màu chủ đạo, gây ấn tượng mạnh mẽ về phong cách. Đây chính là những hoa văn phản ánh đường nét văn hóa truyền thống và đời sống sinh hoạt hàng ngày của người họ. Màu đỏ biểu hiện cho màu của lửa, của máu, tượng trưng cho sức sống, sự vươn lên, niềm đam mê, tình yêu và khát vọng, được nhuộm bằng nhựa cây Kxang, Kơ bai. Màu vàng biểu hiện cho ánh sáng mặt trời, sự kết hợp hài hòa giữa con người và tự nhiên, được nhuộm bằng củ nghệ hay màu của cây Kmếch. Màu xanh biểu hiện cho màu da trời, màu của cây lá được nhuộm bằng nhựa cây truông nhây, cây Kpai…
Hoa văn trên thổ cẩm Ba na chủ yếu chạy dọc theo tấm vải. Điểm nhấn cho các bộ trang phục chính là các đường kẻ sọc. Những đường sọc ngang đỏ, trắng ở gấu áo của nam giới thể hiện sự mạnh mẽ của những người đàn ông quanh năm sống với núi rừng. Trên áo của nữ giới có sọc ở chỗ khuỷa tay, ở cổ, ngang ngực và gấu áo, váy có sọc thân và gấu thể hiện được sự đơn giản trong con người và sự duyên dáng của họ.
Bên cạnh đó, với người Ba na, các phụ kiện là một phần không thể thiếu để tô điểm cho các bộ trang phục và có vai trò trừ tà ma. Các phụ kiện như: hoa tai, lược cài tóc, nhẫn ở 2- 3 ngón tay... Tục lệ đeo nhẫn bắt nguồn từ quan niệm: mỗi ngón tay đều mang một sức mạnh. Ví như ngón cái tượng trưng cho cha, ngón giữa tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực, ngón nhẫn tượng trưng cho sức mạnh của tình yêu. Và, đeo nhiều nhẫn ở các ngón tay là thể hiện sức mạnh tối cao.
Đặc biệt, các thiếu nữ Ba Na còn có khăn đội đầu để làm duyên. Chiếc khăn có những hàng cúc trắng, chuỗi cườm tua tủa, cúc bạc lung linh thể hiện được tình yêu thủy chung và niềm ước mơ hạnh phúc.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển, người Ba na vẫn giữ nguyên được những nét văn hóa trên trang phục của mình. Để sau này, mỗi làn nhắc đến dan tộc Ba na, người ta sẽ không quên những bộ trang phục độc đáo về họa tiết, ấn tượng về màu sắc và ngạc nhiên với ý nghĩa của từng đường nét.
 

 

Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Họ thường mang khố hình chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần mông. Ngày rét, họ mang theo tấm choàng. Ngày trước nam giới búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo kiểu đầu rìu. Trong dịp lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thường mang vòng tay bằng đồng. 

Phụ nữ Ba Na ưa để tóc ngang vai, có khi búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vải hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê, Mang Giang hoặc một số nơi khác họ chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Trước đây, họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có thoa sáp ong để khỏi ngấm nước, đôi khi có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mặc áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. Áo có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thường là ngắn hơn váy của người Ê Đê, ngày nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó.

Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc Gia - rai hoặc Ê - đê. Tuy nhiên, nó khác nhau ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Theo nguyên tắc bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na dành phần chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn một nửa áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn với các màu trắng đỏ), nền chàm còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy được dệt thêu hoa văn và tua vải hai đầu, được thắt và buông thõng dài hai đầu sang hai bên hông.


THÓI QUEN ĂN UỐNG CỦA NGƯỜI BA NA



Việc sử dụng nguyên liệu một cách tương sinh hài hoà và thường thuận theo nguyên lý “âm dương phối triển” đã tạo nên hương vị ẩm thực riêng có của người Ba Na phù hợp với khẩu vị của nhiều người và nhiều lứa tuổi.


Thói quen ăn, uống của người Ba Na

Ai đã từng được tham dự bữa ăn của người Ba Na trong các ngày lễ cũng đều có nhận định rằng: Các nguyên liệu (gia vị) chế biến các món ăn của người Ba Na được sử dụng một cách tương sinh hài hoà với nhau và thường thuận theo nguyên lý “âm dương phối triển”, như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm, ẩm thực của người Ba Na không quá cay, quá ngọt hay quá béo... phù hợp với khẩu vị của nhiều người và nhiều lứa tuổi, đó cũng là những gì làm nên nét đặc sắc riêng trong văn hóa ẩm thực của người Ba Na.

Trong bữa cơm thường ngày người Ba Na thường ăn cơm tẻ, có một số vùng ăn cơm nếp. Xưa kia người Ba Na thường nấu bằng những ống lồ ô, nay phổ biến nấu bằng nồi. Người Ba Na có hai bữa chính là sáng và tối, một số nơi thêm bữa trưa. Ngoài lương thực chính là lúa họ còn ăn ngô (bắp), khoai, sắn. Người Ba Na thường ngày chỉ ăn cơm với rau và các thư do hái lượm và săn bắt được.

Thịt gia cầm hay gia súc chỉ dùng trong các dịp lễ trong năm như: mừng thọ, chọn đất làm rẫy, xuống giống, cầu mưa, mừng lúa mới, giọt nước, cúng nhà rông, cúng Giàng… Các con vật thường được thui, người Ba Na thích ăn tái, nướng hay luộc đặc biệt là các món phèo trâu, dê, bò (Ghé bò – món ăn nổi tiếng của người dân tộc Ba Na).

Người Ba Na còn có tục ăn bùn non (por ktớp), thứ đất họ ăn không phải là cao lanh hay đất sét, mà là… bùn non. Khi một vùng đất nhầy nhụa bùn khô cứng lại dưới cái nắng nhiều ngày, họ sẽ đào lên, lột lấy lớp bùn non mịn, sạch, khô cứng lại ăn mà không cần hun khói, không cần sơ chế. Chị em phụ nữ Ba Na ăn đất như ăn bánh gai, bánh mật, vừa khen thơm và ngon, ngoài ra họ còn ăn đất trên thân cây leo (ktir xa knur), hay ăn cách mảnh gốm non.

Thường ngày, người Ba Na uống nước lã hay rượu cần, rất ít khi uống rượu cất. Rượu có loại ủ bằng gạo, kê, ngô, nay thường làm bằng sắn. Uống rượu cũng được quy định theo thứ bậc, vai vế của người đứng đầu làng, dòng họ được ưu tiên uống trước. Hết già đến trẻ, men rượu cùng với các món ăn phong phú và đa dạng làm cho cả cộng đồng say sưa cho đến tận thâu đêm. Nhưng ngày nay rượu cất và nước chè được dùng phổ biến trong cộng động dân tộc Ba Na. Thuốc lá cũng là thức hút quen thuộc, từ đàn ông đến đàn bà, từ người già đến con trẻ. Nếu nghiện nặng, đồng bào còn ngậm thuốc bằng cách nhét lá thuốc vào những kẽ răng, hoặc ăn thuốc giã với vôi (hết mum).

Ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, nhiều lễ hội của người Ba Na dần dần mất đi, kéo theo nhiều món ăn truyền thống cũng bị mai một. Chính vì vậy,gần đây một số người nâng lên thành lễ hội ẩm thực, nhưng thực ra người Ba Na không có lễ hội ẩm thực. Nếu nói đúng hơn, trong lễ hội thường có ẩm thực, cùng với lễ hội, ẩm thực độc đáo của người Ba Na cần được phục dựng để bảo tồn và giới thiệu rộng rãi với du khách trong và ngoài nước. 

ẨM THỰC NGÀY TẾT CỦA NGƯỜI BA NA



Nhắc đến tết của người Ba na, người ta không chỉ nhớ đến các nghi lễ truyền thống, các trò chơi dân gian mà còn nhớ đến những món ăn độc đáo làm nên không khí, màu sắc, ý nghĩa ngày tết.
Vào cuối năm, sau khi vụ mùa đã thu hoạch xong, người Ba na lại nhộn nhịp với mùa lễ tết như tết Cơm mới, tết Nguyên Đán... Đây không chỉ là dịp để đồng bào Ba na vui chơi mà còn là cơ hội để họ thể hiện được tài năng ẩm thực phong phú của mình với những món ăn vô cùng độc đáo.
Vào các ngày lễ tết, cơm gao tẻ được thay bằng cơm nếp với cách nấu truyền thống - Cơm lam. Đó là món ăn đầu tiên mang đến hương vị ngày tết cho người Tây Nguyên nói chung và người Ba na nói riêng.
Cách nấu cơm lam của người Ba na khác với các dân tộc thiểu số phía Bắc. Người Ba na không dùng ống nứa mà họ vào rừng chặt những ống lô ô còn non, giữ lại đầu mấu ở một đầu ống rồi cho gạo nếp và nước vào. Xong nút lại kéo léo đốt bằng lửa và than. Những ống cơm lam của người Ba na bên ngoài tuy đen đúa nhưng bên trong lại thơm ngon, hấp dẫn lạ thường.
Thơm phức cơm lam
Cùng với cơm lam, các món ăn mang lại sự đang dạng cho hương vị ngày tết. Người ta nói "Mỗi một món ăn đều có hương vị đặc trưng riêng của núi rừng" quả không sai.
Với những nguyên liệu vốn có, những người phụ nữ Ba na khéo léo thể hiện tài năng của mình. Trước khi chế biến thức ăn, người phụ nữ rửa sạch các loại rau, cá, ếch, nhái, các gia súc, gia cầm khác thường thui, nướng... Các loại rau rừng, rau gia vị đều được băm nhỏ hoặc xắt thành sợi. Cà đắng, cà tím được xắt thành miếng. Cá, ếch, nhái mổ bỏ ruột, cắt thịt ra trộn rau rừng, măng rừng, sả, tiêu (giã nhỏ) cho vào ống lô ô. Còn gia súc (trâu, bò, heo, dê...) và gia cầm (gà, vịt) đều được thui trên bếp lửa cho cháy trụi rồi mới cạo hay vặt sạch lông. Sau đó mổ bụng, xẻ thịt, chặt từng khúc nhỏ, trộn gia vị cho vào ống lô ô để lên lửa than cây rừng nướng cho đến chín. Các món ăn phục vụ cho lễ hội được người phụ nữ chế biến thường có: cơm lồ ô nếp trắng, cơm lô nếp than, thịt heo, bò... trộn đều với gia vị nướng lồ ô, cháo (ta bung) nấu thịt, măng đắng nấu với cá trên ống lồ ô, gỏi kiến bóp chua với rau rừng; muối giã với mè, muối giã với lá é... và món tráng miệng khoai lang, khoai sắn. Khi các món ăn đã được nướng, nấu chín, họ trải lá kbang (lá dầu) trên cái nia và đổ thức ăn từ ống lồ ô lên trên lá. Mỗi một món ăn được sắp đặt trên một cái lá. Các món quay kín mặt nia, nhìn vào khá bắt mắt. (Trung tâm xúc tiến đầu tư Thương mại & Du lịch Kon Tum)
Nồi Bánh Tét cho ngày xuân
Bên cạnh các món ăn đó, người Ba na còn có một món ăn rất quý bắt nguồn từ sở thích ăn phèo trâu, bò, dê. Họ lấy phần ruột non chứa nước sữa trắng gàn cổ hũ, rồi cột hai đầu lại luộc chín. Sau đó, thái ra tùng miếng như thái dồi. Phần gần ruột già thì trộn với thịt cổ hũ, ướp sả, muối, hành.
Theo cách chế biến các món ăn, chúng ta có thể thấy được “Các nguyên liệu (gia vị) chế biến các món ăn của người Ba Na được sử dụng một cách tương sinh hài hoà với nhau và thường thuận theo nguyên lý “âm dương phối triển” như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm". Người Ba na không có nhiều món ăn mang tính riêng biệt nhưng với với những nét riêng trong chế biến, người thưởng thức vẫn không thể quên được món ăn của họ

"NHÀ DÀI' KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI BA NA



Nhà sàn của người Ba na luôn được gọi bằng một tên gọi rất độc đáo: nhà dài. Đó là những ngôi nhà không chỉ dài về mặt đo lường (độ dài trung bình 10m) mà ở đó còn chứa đựng độ dài truyền thống của nhiều thế hệ sống chung trong ngôi nhà.
Người Ba na sống chủ yếu trên các vùng đồi núi, chính vì thế, những nét kiến trúc, chất liệu làm nhà cuat họ luôn gắn liền với thiên nhiên, tiện lợi với cuộc sống hàng ngày. Nhà sàn của người Ba na dựng cao, thẳng, cách mặt đất 1 đến 2 m. Toàn bộ nhà sàn được làm bằng gỗ, tre, nứa hoặc lô ô.
Nhà sàn của đồng bào Ba na có hình chữ nhật với chiều dài trung bình khoảng 10m. Mỗi căn nhà gồm 12 cây cột được chia đều mỗi bên 6 cây để tạo nên sự vững chãi, cân bằng cho ngôi nhà. Để làm cột, người Ba na thường chọn cây cà chít - một loại gỗ có vị đắng và cứng chắc, ít mối ăn để đảm bảo độ bền cho khung nhà.
Cột nhà được đẽo tròn, gốc có đường kính độ 30cm và ngọn khoảng 20cm được đục một lỗ hình vuông để kết nối giữa cột và cây trính thượng. Cách trính thượng khoảng 2m là trính hạ. Trính thượng và trính hạ được đẽo thành khối hình chữ nhật. Hai cây đà được gác lên hai hàng trên đầu cây cột. Ở chính giữa trính thượng có một trụ lỏng để chống đỡ đòn giông. Các rui gác lên, đòn giông xưa kia người ta dùng các loại cây tròn thẳng, dài và cứng chắc. Ngày nay, người ta dùng cây xẻ vuông hoặc hình chữ nhật với kích thước 5cm x 5cm hoặc 4cm x 6cm. Cây mè chọn từ cây tre hoặc lồ ô chẻ ra. Với cách làm khéo léo, cẩn thận cộng với nguyên liệu tốt đã làm nên sự bền, chắc của những ngôi nhà sàn Ba na.
Một ngôi nhà sàn bao giờ cũng có hai mái chính với hai mái phụ ở hai đầu gọi là chái. Vách nhà chính thường đan bằng nứa hoặc lồ ô. Có khi vách lại được trét bằng đất trộn với rơm. Nhà có 6 gian, nhưng chỉ một gian đầu cùng hoặc gian cuối có vách ngăn phòng dành cho cha mẹ. Người Ba Na có tập quán xây nhà theo hướng nam, cửa chính ngay ở gian giữa.
Ở vùng người Bana còn có một loại phên dùng để lót sàn nhà rất đặc biệt. Đó là những thỏi gỗ hoặc mảnh nứa dày nhỏ như đầu ngón chân cái được nối với nhau thành tấm theo cách khớp từng mảnh lại, gác lên các thanh dầm gỗ sàn nhà. Trên sàn có trải chiếu ở chỗ mời khách ngồi, hoặc chỗ nghỉ ngơi của chủ nhà…
Người Ba na rất mến khách. Chính vì vậy, họ luôn dành gian giữa - một vị trí trang trọng cho nhũng người khách ghé thắm nhà mình. Đối với khách quý, chủ nhà trải chiếc chiếu mới, mời khách ngồi và mang một bầu nước đầy, mời khách uống. Bên cạnh đó, một bếp lửa để cho khách sưởi ấm khi gặp những ngày giá lạnh.
Một phần quan trọng không thể thiếu trong ngôi nhà dài của người Ba na chính là nhà chồ hnam pra. Nhà chồ hnam pra có hai mái lợp bằng tranh hoặc ngói. Để bước lên nhà chồ người ta bắc một chiếc cầu thang bằng gỗ hương, trắc cao to từ đất lên. Sàn nhà chồ làm bằng gỗ ván to, dày. Đó là nơi dành cho phụ nữ giã gạo vào những buổi sáng sớm hoặc buổi chiều tối đi làm về. Nhà chồ cũng là nơi gia đình ra ngồi chơi hóng mát trong những đêm hè nóng nực.
Bên cạnh những nét độc đáo về cách dưng nhà, các họa tiết trang trí ngôi nhà của người Ba na cũng rất đặc biệt. Ở các bức vách, cửa, cầu thang... Đều có những nét chạm khắc của những người thợ bản địa. Họa tiết thường là các hình khối mang tính tượng hình thể hiện cuộc sống của họ hàng ngày và tính cách của gia chủ. Trong những ngôi nhà dài, có ba đến bốn đời người Ba na sinh sống với nhau. Đó là sự gắn kết cộng đồng dân tộc.
Đến thăm các ngôi nhà sàn của người Ba na, chúng ta không chỉ thấy được nét đặc trưng của nó mà còn khâm phục tài năng của những bàn tay tài hoa dựng nên ngôi nhà ấy. Đó là những đường nét tinh tế, khéo léo mang đậm nét văn hóa dân tộc Ba na.



Trang phục truyền thống của người Việt
Trang phục truyền thống của người Chăm
Trang phục truyền thống của người Mường
Trang phục đặc trưng của Miền Bắc
Trang phục dạ hội của hoa hậu Việt Nam
Trang phục dự tiệc cưới dành cho nam giới



(ST)