Trẻ bị còi xương - nguyên nhân, biểu hiện và cách điều trị

Còi xương hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 3 tuổi, vì lứa tuổi này hệ xương đang phát triển nhanh. Hậu quả của bệnh còi xương thường ảnh hưởng xấu đến phát triển thể chất, tinh thần và vận động của trẻ.



Nguyên nhân

Còi xương là bệnh do rối loạn chuyển hoá vitamin D hoặc thiếu vitaminD.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến trẻ bị còi xương như thiếu nắng mặt trời – đây là nguyên nhân hay gặp nhất do thói quen kiêng cữ, sợ trẻ tiếp xúc với nắng.

Nhà ở chật chội, thiếu ánh sáng, trẻ sinh vào mùa đông mặc quá nhiều quần áo, không được đưa ra ngoài trời tắm nắng, hoặc ở vùng cao có nhiều mây mù… là những nguyên nhân khiến tiến trình tự tổng hợp vitamin D bị ảnh hưởng.

Nguyên nhân thứ hai là chế độ ăn uống không hợp lý, không được bú sữa mẹ thường xuyên, bị tiêu chảy làm giảm hấp thu vitamin D.

Những trẻ dễ bị còi xương là các bé được cho ăn bột sớm, ăn bột nhiều (gây ức chế hấp thu canxi). Trẻ đẻ non, đẻ sinh đôi, trẻ không bú mẹ, trẻ quá bụ bẫm, trẻ sinh vào mùa đông cũng dễ bị bệnh này.

Một nguyên nhân khác khiến trẻ còi xương là do chế độ ăn thiếu canxi, phốt pho, vitamin và chất khoáng khác, hoặc mắc một số bệnh đường tiêu hoá làm giảm hấp thu vitamin D3.

Một số ít trẻ bị bệnh vì di truyền – do trong quá trình mang thai, người mẹ gặp một số vấn đề về sức khỏe và tình trạng ô nhiễm môi trường cũng có thể ảnh hưởng.

Bệnh còi xương khác với bệnh suy dinh dưỡng, bệnh suy dinh dưỡng là do thiếu calo, protein, làm cho trẻ chậm phát triển về thể chất, “thấp bé nhẹ cân”, còn bệnh còi xương thường xuất hiện ở những trẻ được ăn đầy đủ về năng lượng, thậm chí còn gặp ở những trẻ cân nặng còn cao hơn so với cùng lứa tuổi.

Chính vì vậy mà nhiều bà mẹ đã không chú ý, bỏ qua các dấu hiệu của bệnh, đến khi có biến chứng mới đưa con đi khám.

Trẻ em bị còi xương là do cơ thể bị thiếu hụt vitamin D làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thu và chuyển hóa canxi và phốt pho (là những chất cần thiết cho sự phát triển của xương). Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu ánh sáng mặt trời, do kiêng khem quá mức và chế độ ăn nghèo can xi – phốt pho, những trẻ không được bú mẹ dễ bị còi xương hơn trẻ bú mẹ.

1. Những dấu hiệu chứng tỏ trẻ bị còi xương.

  • Trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc, hay giật mình, ra nhiều mồ hôi khi ngủ.

  • Xuất hiện rụng tóc vùng sau gáy tạo thành hình vành khăn.

  • Các biểu hiện ở xương: Thóp rộng, bờ thóp mềm, thóp lâu kín, có các bướu đỉnh, bướu trán (trán dô), đầu bẹp cá trê.

  • Các trường hợp còi xương nặng có di chứng: chuỗi hạt sườn, dô ức gà, vòng cổ chân, cổ tay, chân cong hình chữ X, chữ O.

  • Răng mọc chậm, trương lực cơ nhẽo, táo bón.

  • Chậm phát triển vận động: chậm biết lẫy, biết bò, đi, đứng…

  • Trong trường hợp còi xương cấp tính: trẻ có thể bị co giật do hạ can xi máu.


Biểu hiện


Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu ánh sáng mặt trời, do kiêng khem quá mức và chế độ ăn nghèo canxi – photpho; những trẻ không được bú mẹ dễ bị còi xương hơn trẻ bú mẹ


Trẻ em bị còi xương là do cơ thể bị thiếu hụt vitamin D làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thu và chuyển hóa canxi và phospho. Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi, nguyên nhân chủ yếu là do thiếu ánh sáng mặt trời, do kiêng khem quá mức và chế độ ăn nghèo canxi – phospho; những trẻ không được bú mẹ dễ bị còi xương hơn trẻ bú mẹ.

Giai đoạn đầu còi xương

Giai đoạn này thường khởi phát trong khoảng thời gian 6 tháng đầu đời của trẻ và nó ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thần kinh. Nếu bạn thấy bé có những biểu hiện như ngủ không ngon, đổ mồ hôi nhiều hoặc bị chứng rôm sảy… thì nên chú ý chăm sóc trẻ cẩn thận hơn.

Nếu thấy bé mọc ít tóc, phần tóc khá mỏng đặc biệt là phần tóc phía trước và sau gáy thì khả năng bé bị còi xương là rất cao. Trong trường hợp này, bạn nên đưa bé đến gặp bác sĩ để tiến hành xét nghiệm máu, kiểm tra lượng canxi của trẻ. Nếu trẻ không bị thiếu canxi thì nhiều khả năng bị thiếu phốt pho.

Ảnh minh họa/ Internet


Giai đoạn còi xương nặng


Giai đoạn này cũng xuất hiện trong thời điểm 6 tháng đầu đời. Bạn cần chú ý nếu thấy bé hoạt động kém hơn bình thường, chân tay uể oải, chân có dáng vòng kiềng, những mảng hói lớn trên da đầu của bé…
Ở giai đoạn bệnh trở nặng, bạn sẽ thấy xương của bé mềm đến mức khi chạm vào có cảm giác như bé không có xương. Hình dáng đầu của bé cũng bị thay đổi, vùng đỉnh đầu và phía trước gần như nhô to hơn. Phần xương ở cổ tay và ngón tay có xu hướng nhô hẳn lên


Chứng còi xương có thể làm thay đổi khung xương chậu và trở thành dấu hiệu nghiêm trọng trong quá trình phát triển của các bé gái.

Ngoài ra còn một số biểu hiện khác có thể nhận biết được khi bé bị còi xương như:

- Các biểu hiện ở xương: thóp rộng, bờ thóp mềm, thóp lâu kín, có các bướu đỉnh, bướu trán (trán dô), đầu bẹp cá trê.

- Các trường hợp còi xương nặng có di chứng: chuỗi hạt sườn, dô ức gà, vòng cổ chân, cổ tay, chân cong hình chữ X, chữ O.

- Răng mọc chậm, trương lực cơ nhão, táo bón.

- Trong trường hợp còi xương cấp tính: bé có thể bị co giật do hạ canxi máu.

- Các cơ nhão làm trẻ chậm biết lẫy, bò, ngồi, đứng, đi. Nếu không kịp thời điều trị sẽ để lại di chứng ở hệ xương như: Lồng ngực biến dạng, gù, vẹo cột sống, chân tay cong, chân vòng kiềng (chữ O) hoặc chân chữ bát (chữ X)... Các biến dạng của xương làm giảm chiều cao của trẻ, hạn chế chức năng hô hấp, thay đổi dáng đi và ảnh hưởng xấu đến sinh đẻ sau này đối với bé gái.

Cách phòng bệnh còi xương cho trẻ

- Với mẹ: để phòng bị còi xương ở trẻ các chuyên gia y tế khuyến cáo là trong thời gian mang thai và cho con bú người mẹ cần được tắm nắng, có thời gian hoạt động ngoài trời, nên ăn những thực phẩm giàu vitamin D và canxi. Nếu mẹ không có điều kiện tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thì cần được uống bổ sung vitamin D theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

- Với con: Trẻ sinh ra cần được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Sữa mẹ không chỉ có một hàm lượng vitamin D nhất định mà còn chứa những chất chuyển hóa của vitamin D. Sau giai đoạn cai sữa vẫn tiếp tục cho bé uống sữa công thức tối thiểu 300-400ml/ngày.

Thông thường trẻ được cung cấp vitamin D từ 2 nguồn: từ thức ăn (sữa mẹ, gan, trứng, một số loại rau quả...). Tuy nhiên hàm lượng vitamin D có trong sữa mẹ hoặc thức ăn không nhiều. Ngoài ra vitamin D được tổng hợp từ các tiền vitamin D ở dưới da, dưới tác động quang hóa của tia cực tím trong ánh sáng mặt trời mới chính là nguồn cung cấp chủ yếu vitamin D cho cơ thể trẻ. Trẻ em không bị còi xương hằng ngày cũng cần được tắm nắng khoảng 10-15 phút trước 9 giờ sáng hoặc sau 4 giờ chiều để tiền tố vitamin D trên da trẻ sẽ được chuyển thành vitamin D.

Khi trẻ bắt đầu ăn dặm cần cho trẻ ăn nhiều hơn những thức ăn có đủ chất canxi, phốt pho để phòng bệnh. Một số thực phẩm chứa nhiều canxi mà các bà mẹ có thể dùng nấu cho trẻ ăn là cua, tép khô, ốc, tôm, cá , lòng đỏ trứng, hến, sữa bò tươi, sữa chua, vừng đen, rau ngót, rau đay, rau muống...

Khi cho trẻ ăn dặm cha mẹ phải nhớ bổ sung đủ dầu/mỡ vào các bữa ăn dặm để bảo đảm đủ chất béo làm dung môi giúp cơ thể hấp thu vitamin D.

Đối với trẻ đẻ non, thiếu cân, có thể cho uống vitamin D, 400 đơn vị mỗi ngày trong suốt năm đầu.

Ảnh minh họa/ Internet


Cho trẻ tắm nắng hàng ngày: để chân, tay, lưng, bụng trẻ lộ ra ngoài từ 10 -15 phút lúc buổi sáng (trước 9 giờ). Về mùa đông không có ánh nắng cho trẻ đi tắm điện ở khoa vật lý liệu pháp tại các bệnh viện. Dưới da có sẵn các tiền vitamin D là 7 dehydrocholesterol, dưới tác dụng của tia tử ngoại của ánh nắng mặt trời các tiền vitamin sẽ bị hoạt hóa chuyển thành vitamin D. Vitamin D có tác dụng điều hòa chuyển hóa và hấp thu canxi, phospho, ánh nắng mặt trời phải được chiếu trực tiếp trên da mới có tác dụng, nếu qua lần vải thì sẽ còn rất ít tác dụng.

- Cho trẻ uống thêm các chế phẩm có canxi như: canxi B1 – B2 – B6: 1 – 2 ống/ngày, trẻ lớn có thể ăn cốm canxi 1 – 2 thìa cà phê/ngày.

- Cho trẻ bú mẹ, ăn bổ sung các loại thực phẩm có chứa nhiều canxi: sữa, cua, tôm, cá trong các bữa ăn hàng ngày (cần xóa bỏ quan niệm cho trẻ ăn xương ống, xương chân gà sẽ chống được còi xương); cho dầu mỡ vào bữa ăn hàng ngày của trẻ vì: vitamin D là loại tan trong dầu, nếu chế độ ăn thiếu dầu mỡ thì dù có được uống vitamin D trẻ cũng không hấp thu được nên vẫn bị còi xương.


 Những trẻ nào dễ có nguy cơ bị còi xương.

  • Trẻ đẻ non, đẻ sinh đôi.
  • Trẻ nuôi bằng sữa bò.
  • Trẻ quá bụ bẫm.
  • Trẻ sinh vào mùa đông.

Các bà mẹ cần phân biệt: Bệnh còi xương và bệnh còi cọc.


  • Trẻ còi cọc: Trẻ bị suy dinh dưỡng, có số đo về cân nặng và chiều cao đều thấp hơn trẻ bình thường, cũng có thể kèm còi xương hoặc không.
  • Bệnh còi xương: Có thể gặp ở cả những đứa trẻ rất bụ bẫm, do nhu cầu về can xi, phốt pho cao hơn trẻ bình thường.


Cần phải làm gì khi trẻ bị còi xương.

  • Cho trẻ tắm nắng hàng ngày: Để chân, tay, lưng, bụng trẻ lộ ra ngoài từ 10-15 phút lúc buổi sáng (trước 9 giờ). Về mùa đông không có ánh nắng cho trẻ đi tắm điện ở khoa lí liệu pháp tại các bệnh viện. Bởi vì dưới da có sẵn các tiền vitamin D là 7 dehydrocholesterol dưới tác dụng của tia tử ngoại của ánh nắng mặt trời các tiền vitamin sẽ bị hoạt hóa chuyển thành vitamin D. Vitamin D có tác dụng điều hòa chuyển hóa và hấp thu canxi, phốt pho, ánh nắng mặt trời phải được chiếu trực tiếp trên da mới có tác dụng, nếu qua lần vải thì sẽ còn rất ít tác dụng.
  • Cho trẻ uống vitamin D 4000 UI/ngày trong 4-8 tuần, trong trường hợp trẻ bị viêm phổi, tiêu chảy cần tăng liều 5000 – 10.000 UI/ngày trong 1 tháng, hoặc cho trẻ tiêm Vitamin D 200.000 UI/uống, 3 tháng tiêm nhắc lại một lần trong năm đầu tiên.
  • Cho trẻ uống thêm các chế phẩm có canxi như: Canxi B1 – B2 – B6: 1-2 ống/ngày, trẻ lớn có thể ăn cốm canxi 1-2 thìa cà phê/ngày.
  • Chế độ ăn uống:

     + Cho trẻ bú mẹ.

     + Ăn bổ sung các loại thực phẩm có chứa nhiều canxi: sữa, cua, tôm, cá trong các bữa ăn hàng ngày. Cần xóa bỏ quan niệm cho trẻ ăn xương ống, xương chân gà sẽ chống được còi xương.

     + Cho dầu mỡ vào bữa ăn hàng ngày của trẻ: vì Vitamin D là loại tan trong dầu, nếu chế độ ăn thiếu dầu mỡ thì dù có được uống vitamin D trẻ cũng không hấp thu được nên vẫn bị còi xương.



Muốn phòng bệnh còi xương các bà mẹ cần phải làm gì?

  • Khi có thai phải làm việc nghỉ ngơi hợp lý để tránh bị đẻ non, có thể uống Vitamin D khi thai được 7 tháng: 600.000UI/3 tuần, mỗi tuần 200.000UI.

  • Sau đẻ cả mẹ và con không nên ở trong phòng tối và kín, phòng ở thoáng mát và đầy đủ ánh sáng.

  • Sau khi sinh 2 tuần cho trẻ ra tắm nắng 15-20 phút/ngày vào buổi sáng (trước 9 giờ).

  • Cho trẻ uống Vitamin D 400UI/ngày trong suốt năm đầu tiên nhất là về mùa đông.

  • Khi trẻ ăn bổ sung: cho trẻ ăn các loại thực phẩm có chứa nhiều canxi như: sữa, trứng, tôm, cua, cá, rau xanh và dầu mỡ.


Cách phát hiện trẻ bị còi xương


Bệnh còi xương còn có thể gây biến dạng xương và tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn nhất là viêm phổi. Tuy nhiên, không phải bà mẹ nào cũng hiểu cặn kẽ, nhiều bà mẹ thường cho rằng  trẻ suy dinh dưỡng thì mới bị còi xương, còn trẻ bụ bẫm như “ con  mình” thì không thể còi xương được . Điều này không đúng, vì nhiều trẻ  bụ bẫm vẫn bị còi xương. Nguyên nhân còi xương ở trẻ là do thiếu vitamin D.


Vai trò của vitamin D:


Vitamin D là vitamin tan trong chất béo và có trong thức ăn động vật như gan, cá, trứng, sữa…Vitamin D là một nhóm gồm từ D2 đến D7, trong đó 2 chất có hoạt tính mạnh nhất là D2 và D3, trong đó D3 được tổng hợp ở các tế bào da nhờ ánh sáng tử ngoại, nếu được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thì lượng D3 tạo ra đủ cho nhu cầu của cơ thể.Vitamin D có vai trò rất quan trọng trong quá trình tạo xương nhờ tác dụng chuyển hoá các chất vô cơ, chủ yếu là can-xi và photpho, Vitamin D làm tăng hấp thu can xi và photpho ở ruột, tăng tái hấp thu can xi ở thận, tham gia vào quá trình can xi hoá sụn tăng trưởng. Do đó vai trò của nó rất quan trọng trong sự phát triển bình thường hệ xương ở trẻ em. Ngoài ra vitamin D còn có vai trò điều hoà nồng độ can xi trong máu luôn hằng định, khi thiếu vitamin D, ruột không hấp thu đủ can xi và phot pho, làm can-xi máu giảm, khi đó can-xi bị huy động từ xương ra để ổn định nồng độ can-xi máu, nên gây hậu quả còi xương ở trẻ em, làm trẻ chậm lớn, chậm biết đi, chân vòng kiềng…, ở người lớn sẽ bị loãng xương, xương dễ gẫy.



Cách phát hiện trẻ bị còi xương:


Biểu hiện sớm của bệnh còi xương là trẻ hay khuấy khóc, nôn trớ, ngủ không yên giấc, ra mồ hôi trộm, rụng tóc phía sau đầu (vành khăn ). Nếu không điều trị, sau vài 3 tuần dần dần sẽ xuất hiện các triệu chứng ở xương. Tuỳ theo từng lứa tuổi mà biến đỏi ở xương khác nhau:

- Ở trẻ nhỏ có thể sờ thấy xương sọ mềm, do tư thế nằm đầu dễ bị méo mó, đầu bẹt phía sau, hoặc một bên. Thóp rộng chậm liền, bờ thóp mềm, đầu to có bướu, răng mọc chậm, men răng xấu.

- Ở trẻ lớn hơn thường có biến đổi xương lồng ngực, có chuỗi hạt sườn. Các xương chi xuất hiện vòng cổ tay, cổ chân. Các cơ nhẽo làm cho trẻ chậm biết lẫy, bò, ngồi, đứng, đi. Nếu không điều trị kịp thời sẽ để lại di chứng như : lồng ngực biến dạng, ngực nhô ra phía trước như ngực gà, gù, vẹo cột sống, chân tay cong, chân vòng kiềng, chân chữ bát, khung chậu hẹp.

- Các biến chứng của xương làm giảm chiều cao, hạn chế chức năng hô hấp, thay đổi dáng đi và ảnh hưởng xấu đến sinh đẻ ở trẻ gái. Ngoài ra trẻ còn bị xanh xao, thiếu máu và hay bị viêm phổi tái đi tái lại.


Phòng và điều trị còi xương :


Còi xương là một bệnh có thể phòng tránh được và ít tốn kém, vì nước ta quanh năm đều có ánh nắng.


Để phòng còi xương cho con, thì ngay từ khi mang thai, người mẹ nên thường xuyên đi dạo ngoài trời để tiếp nhận vitamin D. Trong chế độ ăn nên ăn các loại thực phẩm có nhiều can-xi và vitamin D như cá, cua, trứng, gan, sữa… Trẻ sau khi sinh cần được bú ngay, bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Khi trẻ ăn bổ sung nên cho trẻ đủ chất, thường xuyên cho trẻ ăn cua, cá, trứng, sữa, gan, pho mai,  các loại rau xanh. Chú ý bữa ăn  luôn có dầu ăn hoặc mỡ để tăng hấp thu vitamin D . Trẻ luôn  được sống trong môi trường trong sạch, thoáng mát, có nhiều ánh sáng. Ngay từ tháng đầu sau đẻ, cả hai mẹ con cần được tắm nắng (chỉ cần để hở hai cẳng chân cho da của trẻ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời). Trẻ lớn hơn cho tắm nắng vào buổi sáng , tuỳ thuộc vào mùa, thời gian tăng dần 5 – 20 phút. Ở những trẻ ít được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời (sinh vào mùa đông), trẻ đẻ thấp cân (dưới 2500 g) thì từ tuần thứ hai nên cho uống vitamin D với liều 400 đơn vị/ ngày, uống liên tục trong năm đầu. Trẻ bị còi xương do thiếu vitamin D thường thiếu cả can-xi  cần cho trẻ uống thêm cả can-xi. Liều lượng và thời gian theo chỉ định của bác sỹ, vì uống không đúng có thể gây ngộ độc vitamin D. Trong một số trường hợp uống quá liều và kéo dài sẽ làm tăng can-xi máu và vôi hoá mạch máu gây sỏi thận. Với các thực phẩm chức năng có bổ sung can-xi theo hàm lượng thường thiếu hụt cần bổ sung thêm hàng ngày thì không cần dùng theo đơn của bác sĩ nhưng liều dùng cần theo hướng dẫn của nhà sản xuất.


Món ăn cho trẻ bị còi xương


Còi xương là tình trạng bệnh lý thường gặp ở trẻ nhỏ. Nguyên nhân là do thiếu vitamin D làm cho chuyển hóa canxi và phôtpho bị rối loạn, dẫn đến quá trình sinh trưởng của xương bị cản ngại, thậm chí gây biến dạng xương.

Dưới đây là một số món ăn mà trẻ dễ chấp nhận, vừa đạt hiệu quả điều trị bệnh, vừa cung cấp chất dinh dưỡng, lại rẻ tiền và dễ kiếm.

- Trứng gà tươi vài quả rửa sạch, đập lấy vỏ rồi sao vàng tán bột, đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 1-2 lần, mỗi lần 5 g hòa với nước cháo.

- Chân con cua 100 g rửa sạch, sao vàng tán bột, mỗi ngày dùng 5 g hòa với nước cháo.

- Trứng gà 1 quả, luộc kỹ bằng lửa nhỏ trong 45 phút rồi bóc lấy lòng đỏ, dùng thìa nghiền nhỏ rổi hòa với cháo ăn trong ngày.

- Sò biển 100 g, rửa sạch, nấu nhuyễn cho một chút muối rồi ăn vài lần.

- Hến 10 con, làm sạch, đánh đều với một quả trừng gà rồi hấp cách thủy, ăn trong ngày,

- Xương sụn lợn 500 g, rửa sạch hầm nhừ với 50 g đậu tương rồi cho trẻ ăn với lượng thích hợp.

- Cá trắm đen 1 con, làm sạch, chú ý bỏ mật, rồi cắt khúc, xào qua với gừng, hành và một chút dầu thực vật, rồi đổ nước hầm nhừ, chia ăn nhiều lần trong ngày.

- Hà thủ ô 100 g, ngưu tất 100 g, ngâm trong rượu trắng 7 ngày rồi lấy ra phơi khô, sao thơm, tán bột, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi lần lấy 5 quả đại táo, khía dọc bỏ hột rồi cho bột thuốc vào trong, đem hấp cách thủy cho chín rồi ăn trong ngày.

- Ô tặc cốt 15 g, quy bản 15 g, tây thảo 5 g. Tất cả sắc kỹ lấy nước, bỏ bã, rồi hòa với một chút đường đỏ, chia uống vài lần.

- Quy bản 15 g, cốt toái bổ 15 g, đẳng sâm 10 g, Tất cả sắc kỹ trong 1 giờ, rồi lọc lấy nước, hòa với một chút đường đỏ, chia uống vài lần.

- Rùa một con, làm thịt, hầm nhừ với gừng, hành, muối rồi cho trẻ ăn với lượng thích hợp.



Trẻ bị sún răng
Trẻ bị nang kê
Trẻ bị sốt nên kiêng gì
Trẻ bị nói lắp
Nguyên nhân trẻ bị hôi miệng
Trẻ bị ho nhiều vào đêm
Chế độ ăn cho trẻ bị tiêu chảy cấp


(st)




con em đươc 9thang roi mà bé chỉ biêt lẫy và ngồi nâng mông bé chỉ đứng chứ ko nhún nhảy bé moc răng luc 6thang hay khoc đêm nhg ngày rất ngoan , bé hay nôn trớ. Vây có fải bé bị còi xương ko bác sĩ
hơn 1 tháng trước - Thích (15)
Con em dc 13 tháng chỉ nặng 8kg, chiều cao 72.5cm cân nặng lúc sinh là 3.5Kg, vì điều kiện lên e đã cai sữa cho bé từ lúc 9tháng, bé rất lười ăn và ăn rất ít, sữa ngoài cũng uống rất ít, e đã cho bé đi khám ở Viện dinh dưỡng, bác sỹ nhìn con em rồi bảo bị thiếu máu và kê đơn thuốc, con e uống được 1tháng rồi mà vẫn như vậy ko thay đổi gì, bé hay bị ọe, nôn một ít sau khi ăn hoặc uống nước, mặc dù là ăn ít có pải bị trào ngược dạ dày ko ạ, xin bác sy tư vấn giúp em với.
hơn 1 tháng trước - Thích
Gửi hỏi đáp - bình luận