Triệu chứng của bệnh nhiễm sán chó
Triệu chứng của bệnh tụt canxi máu và cách xử lý nhanh
Các triệu chứng của hen phế quản thì biểu hiện khác nhau ở mỗi người và trên cùng một người chúng cũng biểu hiện khác nhau tùy theo từng thời điểm. Chúng ta cùng điểm lại những triệu chứng của bệnh hen phế quản để có cách điều trị kịp thời nhé!
TRIỆU CHỨNG CỦA HEN PHẾ QUẢN
Trong số các triệu chứng này thì chỉ có thể biểu hiện bệnh hen phế quản chỉ phảng phất và có thể tương tự với các bệnh lý khác. Tất cả các triệu chứng được đề cập dưới đây có thể gặp ở các bệnh lý hô hấp và thỉnh thoảng có thể gặp ở những bệnh lý tại tim.
Sau đây là 4 triệu chứng thường thấy nhất:
Hen phế quản được phân loại dựa vào tần suất và độ nặng của triệu chứng, hay của cơn hen phế quản, và dựa vào kết quả xét nghiệm chức năng phổi:
Cơn hen phế quản cấp tính là gì?
Cơn hen phế quản cấp tính (hay đột ngột) thường do tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc nhiễm trùng hô hấp trên. Độ nặng của cơn hen tùy thuộc vào việc cơn hen của bạn được kiểm soát tốt như thế nào (điều này phản ánh tình trạng viêm đường hô hấp được kiểm soát tốt như thế nào). Cơn hen phế quản cấp tính có thể đe dọa mạng sống bởi vì nó có thể tiếp tục diễn tiến dù cho có sử dụng thuốc tác dụng nhanh (thuốc dãn phế quản dạng hít). Hen phế quản không đáp ứng với điều trị bằng đường hít thì nên được theo dõi chặt chẽ tại phòng cấp cứu của bệnh viện. Các cơn hen phế quản không tự dừng lại khi không được điều trị. Nếu bạn bỏ qua các triệu chứng cảnh báo sớm (tiền triệu) thì có nghĩa là bạn tự đặt mình vào nguy cơ bị khởi phát "trạng thái suyễn" (status asthmaticus).
Các cơn hen phế quản kéo dài không đáp ứng điều trị với thuốc dãn phế quản là một cấp cứu nội khoa. Bác sĩ lâm sàng gọi các cơn hen nặng này là "trạng thái suyễn" và cần được săn sóc khẩn cấp.
Các triệu chứng của hen phế quản nặng là:
Vào thời điểm này thì các thuốc dãn phế quản đường hít khó có thể giúp hồi phục. Thông khí cơ học (thở máy) có thể cần thiết để trợ giúp cho các cơ hô hấp. Có thể điều trị bằng mặt nạ dưỡng khí hoặc đặt ống nội khí quản qua đường miệng hoặc mũi. Việc trợ giúp hô hấp này chỉ là tạm thời và được sẽ được tháo bỏ một khi cơn hen dịu đi và phổi hồi phục đầy đủ để có thể tiếp tục thực hiện chức năng hô hấp của nó. Việc nằm viện ngắn hạn trong khoa săn sóc tăng cường có thể là hậu quả của một cơn hen nặng mà không được điều trị kịp thời. Để tránh những trường hợp nhập viện như thế, tốt nhất là khi triệu chứng khởi phát thì bắt đầu điều trị ngay lập tức tại nhà hoặc tại phòng mạch bác sĩ.
Sự xuất hiện các triệu chứng ho và thở khò khè không phải là một tiêu chuẩn đáng tin cậy để đánh giá độ nặng của cơn hen phế quản. Những cơn hen rất nặng có thể gây tắc nghẽn đường thở làm cho không khí không thể đi vào hay ra khỏi phổi và do đó không tạo nên tiếng thở khò khè hay ho.
NGUYÊN NHÂN GÂY HEN PHẾ QUẢN
Các triệu chứng của hen phế quản có thể được kích hoạt và trở nên nặng nề hơn bởi nhiều tác nhân. Không phải tất cả những người bị hen phế quản đều bị phản ứng với cùng một tác nhân. Ngoài ra, ảnh hưởng của các tác nhân này lên phổi cũng khác nhau ở mỗi người. Nói chung, độ nặng của các triệu chứng hen phế quản phụ thuộc vào việc có bao nhiêu tác nhân kích hoạt nên các triệu chứng và phổi của bạn nhạy cảm như thế nào đối với chúng.
Các tác nhân có thể được chia làm 2 nhóm:
Một khi phế quản (hay mũi và mắt) bị viêm do tiếp xúc với tác nhân dị ứng thì việc tái tiếp xúc với những tác nhân dị ứng này thường gây nên các triệu chứng. Và những phế quản phản úng quá mức này cũng có thể đáp ứng với những tác nhân kích thích khác như tập thể dục, nhiễm trùng... Sau đây là liệt kê 2 loại tác nhân thường gặp:
Khoảng 80% trẻ em và 50% người lớn bị hen phế quản đều có dị ứng.
Việc có nhiều tác nhân tiềm ẩn giải thích vì sao hen phế quản có thể khởi phát theo nhiều cách khác nhau. Nhưng trong đa số các trường hợp thì nó thường khởi phát trong độ tuổi từ 2 đến 6. Trong độ tuổi này thì thì hen phế quản thường có liên quan đến việc tiếp xúc với các tác nhân dị ứng như bụi, khói thuốc và nhiễm siêu vi đường hô hấp. Ở những trẻ dưới 2 tuổi thì khó chẩn đoán hen phế quản một cách chắc chắn. Thở khò khè ở độ tuổi này có thể theo sau tình trạng nhiễm siêu vi đường hô hấp và thường biến mất sau đó mà không dẫn đến bệnh hen phế quản. Tuy nhiên hen phế quản có thể khởi phát trở lại vào độ tuổi trưởng thành. Hen phế quản khởi phát ở người lớn thì thường gặp ở phụ nữ nhiều hơn, hầu hết vào độ tuổi trung niên và thường theo sau một tình trạng nhiễm trùng đường hô hấp. Tác nhân kích thích đối với nhóm này về bản chất là thường không phải do dị ứng.
Hen phế quản do dị ứng (ngoại lai) và hen phế quản không do dị ứng (nội tại) là gì?
Bác sĩ có thể đề cập đến hen phế quản là "ngoại lai" hay "nội tại". Việc hiểu rõ hơn về bản chất của hen phế quản có thể giúp giải thích về sự khác biệt giữa chúng.
Hầu hết các thuốc điều trị hen phế quản có tác động chủ yếu là giảm sự co thắt phế quản (thuốc dãn phế quản) hoặc giảm viêm (thuốc corticosteroids). Trong điều trị hen phế quản, các thuốc dạng hít nhìn chung được ưa chuộng hơn so với các thuốc dạng viên nén hoặc dạng lỏng được uống qua đường miệng. Các thuốc dạng hít tác động trực tiếp lên bề mặt và cơ của đường hô hấp, nơi mà các triệu chứng của hen phế quản bắt đầu. Sự hấp thu của các thuốc dạng hít vào các nơi khác của cơ thể là rất ít. Do đó các tác dụng phụ ít gặp hơn so với các thuốc dạng uống.
Các thuốc dạng hít bao gồm:
Thuốc đồng vận thụ thể beta-2 (beta-2 agonist)
Thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic)
Corticosteroids
Cromolyn sodium
Các thuốc dạng uống bao gồm:
Aminophylline
Thuốc đối vận leukotriene (leukotriene antagonist)
Viên nén corticosteroids
Trước đây, một trong những thuốc được sử dụng để điều trị hen phế quản là adrenaline (epinephrine). Adrenaline có cơ chế tác động nhanh trong việc mở rộng đường thở (tác dụng dãn phế quản). Nó vẫn còn được sử dụng trong các tình trạng cấp cứu của hen phế quản. Thật không may là adrenaline có nhiều tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, nhức đầu, buồn nôn, nôn, bồn chồn, hoảng loạn.
Có nhiều thuốc về mặt hóa học tương tự với adrenaline đã được bào chế. Những thuốc này được gọi là đồng vận beta-2 có tác dụng làm dãn phế quản như adrenaline nhưng không có nhiều tác dụng phụ. Thuốc đồng vận beta-2 là thuốc dãn phế quản dạng hít. Được gọi là "đồng vận" bởi vì chúng thúc đẩy những tác động của thụ thể beta-2 ở các cơ thành phế quản. Các thụ thể này có tác động làm dãn các cơ ở thành phế quản, kết quả là làm dãn phế quản. Tác động làm dãn phế quản của thuốc đồng vận beta-2 này bắt đầu trong vòng vài phút sau khi hít và kéo dài khoảng 4 giờ. Các ví dụ cho nhóm thuốc này là albuterol (Ventolin, Proventil), metaproterenol (Alupent), pirbuterol acetate (Maxair) và terbutaline sulfate (Brethaire).
Các thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài đã được bào chế với thời gian tác dụng liên tục trong 12 giờ. Các thuốc dạng hít này được sử dụng 2 lần một ngày. Ví dụ cho nhóm thuốc đồng vận beta-2 tác dụng kéo dài này là salmeterol xinafoate (Serevent). Các thuốc nhóm này thường không được sử dụng cho các cơn hen cấp tính và chúng có một số tác dụng phụ như lo lắng, rung, hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, hạ kali máu.
Do các thuốc đồng vận beta-2 có thể làm dãn phế quản trong khi các thuốc chẹn thụ thể beta có thể làm suy giảm sự dãn cơ ở phế quản thông qua thụ thể beta-2 và có thể làm co thắt phế quản và tình trạng hen phế quản nặng nề hơn. Do đó, nhóm thuốc chẹn beta như các thuốc điều trị cao huyết áp propanolol (Inderal) và atenolol (Tenormin) nên tránh dùng cho bệnh nhân hen phế quản.
Các thuốc kháng hệ cholinergic (thuốc anticholinergic) tác động vào loại dây thần kinh khác so với nhóm thuốc đồng vận beta-2 để đạt được hiệu quả dãn phế quản. Hai nhóm thuốc dãn phế quản dạng hít khi được sử dụng cùng nhau có thể cho hiệu quả dãn phế quản mạnh hơn. Thuốc nhóm này thường được sử dụng là ipratropium bromide (Atrovent). Ipratropium có thời gian bắt đầu tác dụng lâu hơn nhóm đồng vận beta-2, với đỉnh tác dụng xuất hiện vào khoảng 2 giờ sau khi sử dụng và kéo dài 6 giờ. Nhóm thuốc kháng cholinergic này có thể hữu ích cho những bệnh nhân bị khí phế thủng.
Khi các triệu chứng của hen phế quản khó kiểm soát bằng thuốc đồng vận beta-2 thì corticosteroids (Cortisone) thường được thêm vào. Corticosteroid có thể cải thiện chức năng phổi và làm giảm hiện tượng tắc nghẽn của phế quản. Các thuốc nhóm này bao gồm beclomethasone dipropionate (Beclovent, Beconase, Vancenase, Vanceril), triamcinolone acetonide (Azmacort) và flunisolide (Aerobid). Liều lý tưởng cho các thuốc corticosteroid này chưa rõ. Các tác dụng phụ của thuốc corticosteroid dạng hít bao gồm khàn tiếng, mất giọng, nhiễm nấm ở vùng miệng. Việc sử dụng sớm các corticosteroid dạng hít có thể giúp ngăn chặn những tổn thương không hồi phục của phế quản.
Cromolyn sodium (Intal) ngăn chặn sự phóng thích các hóa chất trung gian ở phổi như histamine, chất mà có thể gây ra cơn hen. Chính xác là cromolyn tác động như thế nào trong việc ngăn ngừa hen phế quản cần được nghiên cứu thêm. Cromolyn không phải là corticosteroid và không có tác dụng phụ đáng kể. Cromolyn là thuốc có ích trong việc ngăn ngừa hen phế quản nhưng lại có tác dụng hạn chế một khi cơn hen phế quản cấp tính khởi phát. Cromolyn có thể giúp ngăn ngừa cơn hen phế quản bị kích thích bởi tập thể dục, không khí lạnh, các tác nhân dị ứng như lông mèo. Cromolyn có thể được sử dụng ở trẻ em cũng như người lớn.
Theophylline (Theodur, Theoair, Slo-bid, Uniphyl, Theo-24), aminophylline là những ví dụ của nhóm thuốc methylxanthines. Methylxanthines có thể được sử dụng bằng đường uống và tiêm tĩnh mạch. Trước khi các thuốc dạng hít trở nên phổ biến thì methylxanthines chính là "trụ cột" trong điều trị hen phế quản. Chất caffeine có trong cafe thông thường và các loại nước giải khát cũng là một thuốc methylxanthine. Theophylline làm dãn cơ phế quản và ngăn ngừa các tế bào lót bên trong lòng phế quản (tế bào mast) phóng thích ra các hóa chất trung gian như histamine mà có thể gây ra cơn hen phế quản. Theophylline có thể hoạt động như một thuốc lợi tiểu nhẹ và làm gia tăng sự tiểu tiện. Đối với hen phế quản khó kiểm soát thì methylxanthines vẫn còn đóng một vai trò quan trọng. Liều lượng sử dụng theophylline hay aminophylline được theo dõi chặt chẽ. Nếu sử dụng liều quá mức có thể gây buồn nôn, nôn, rối loạn nhịp tim và thậm chí co giật. Trong một số trường hợp như suy tim hoặc xơ gan thì liều lượng của methylxanthines thường thấp để tránh nồng độ của nó tăng cao trong máu. Sự tương tác với các thuốc khác như cimetidine (Tagamet), thuốc chẹn kênh canxi (Procardia), quinolones (Cipro), allopurinol (Xyloprim) có thể cũng ảnh hưởng đến nồng độ của thuốc trong máu.
Thuốc corticosteroids đường uống có thể được sử dụng ở những bệnh nhân bị hen phế quản nặng không đáp ứng điều trị với các thuốc khác. Tuy nhiên, corticosteroids liều cao và sử dụng kéo dài có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng như loãng xương, gãy xương, tiểu đường (đái tháo đường), cao huyết áp, mỏng da và dễ bị bầm tím, mất ngủ, thay đổi cảm xúc và tăng cân.
Các thuốc long đờm giúp làm loãng đờm trong đường hô hấp, và từ đó làm cho nó dễ bị tống ra ngoài khi ho. Muối KI (potassium iodide) không được sử dụng phổ biến vì có thể gây nên mụn, tăng tiết nước bọt, phát ban, các vấn đề tuyến giáp. Guaifenesin (Entex, Humibid) có thể gia tăng sự sản xuất các chất dịch giúp làm loãng đờm, nhưng cũng có thể là chất kích thích đối với một số người.
Ngoài việc sử dụng các thuốc dãn phế quản cho những bệnh nhân bị hen phế quản do dị ứng thì việc tránh tiếp xúc với những tác nhân dị ứng hoặc các chất kích thích khác cũng rất quan trọng. Đối với những bệnh nhân không thể tránh tiếp xúc với các tác nhân dị ứng hoặc không thể được kiểm soát bằng thuốc thì việc tiêm phòng dị ứng cần được xem xét. Lợi ích của việc tiêm phòng dị ứng (khử mẫn cảm: desensitization) để phòng ngừa hen phế quản vẫn chưa được xác nhận rõ ràng. Một số bác sĩ vẫn còn e ngại về nguy cơ sốc phản vệ có thể xuất hiện với tỷ lệ 1/2.000.000. Tiêm phòng dị ứng mang lại lợi ích nhiều nhất ở trẻ em bị dị ứng với bụi trong nhà. Phương pháp này cũng có lợi đối với các loại dị ứng với phấn hoa và lông thú.
Ở một số bệnh nhân hen phế quản thì việc tránh sử dụng thuốc aspirin hay các thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) cũng rất quan trọng. Đây là những thuốc thường được sử dụng để điều trị viêm khớp. Ở một số bệnh nhân khác thì việc điều trị bệnh lý hồi lưu (trào ngược) dạ dày - thực quản (GERD) cũng có thể giúp ngăn ngừa sự kích thích ở đường hô hấp. Các biện pháp để ngăn ngừa trào ngược vào thực quản là dùng thuốc, giảm cân, thay đổi chế độ ăn, bỏ thuốc lá, cafe và rượu. Ví dụ các thuốc được sử dụng để làm giảm tình trạng này bao gồm omeprazole (Prilosec) và ranitidine (Zantac). Bệnh nhân với bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản nặng có thể gây ảnh hưởng đến phổi và cần được phẩu thuật để củng cố cơ thắt thực quản, và từ đó giúp ngăn ngừa hiện tượng trào ngược acid từ dạ dày vào thực quản.
Cách chăm sóc em bé bị hen phế quản nhanh khỏi
Mẹo chữa hen phế quản đơn giản hiệu quả
Bài thuốc dân gian chữa hen phế quản
Nguyên nhân của bệnh hen phế quản
Thức ăn cho người bị bệnh hen suyễn
(ST)