Triệu chứng của bệnh nhiễm sán chó
Triệu chứng của bệnh tụt canxi máu và cách xử lý nhanh
Nguyên nhân của bệnh lao xương khớp
Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do vi khuẩn lao người, có thể gặp vi khuẩn lao bò, rất hiếm gặp vi khuẩn kháng cồn kháng toán không điển hình.
Lao xương khớp thường xuất hiện sau lao sơ nhiễm 2 – 3 năm (giai đoạn 2 theo Ranke). Hay thấy sau lao các màng và trước lao các nội tạng.
Vi khuẩn lao có thể lan từ phức hợp sơ nhiễm tới bất kỳ xương hoặc khớp nào trong cơ thể. Thông thường vi khuẩn lao tới khớp chủ yếu theo đường máu, ít trường hợp vi khuẩn theo đường bạch huyết, có thể theo đường tiếp cận như lao khớp háng do lan từ ổ áp xe lạnh của cơ thắt lưng.
Tuổi mắc bệnh trước đây đa số là tuổi trẻ < 20. Hiện nay lao xương khớp chủ yếu gặp ở người lớn, lứa tuổi từ 16 – 45 tuổi.
Các yếu tố thuận lợi mắc lao xương khớp:
Trẻ nhỏ chưa được tiêm phòng lao bằng vaccin BCG.
Có tiếp xúc với nguồn lây đặc biệt là nguồn lây chính, nguy hiểm, tiếp xúc thường xuyên liên tục.
Đã và đang điều trị lao sơ nhiễm, lao phổi hay một lao ngoài phổi khác.
Có thể mắc một số bệnh có tính chất toàn thân như: đái tháo đường, loét dạ dày – tá tràng, cắt 2/3 dạ dày.
Cơ thể suy giảm miễn dịch, còi xương, suy dinh dưỡng, nhiễm HIV/AIDS, suy kiệt nặng.
Các biện pháp phòng tránh bệnh lý xương khớp ở người cao tuổi
Hiện nay có rất nhiều các biện pháp điều trị và dự phòng có hiệu quả các bệnh xương khớp ở người cao tuổi. Đầu tiên đó là một chế độ ăn uống, sinh hoạt lành mạnh, kết hợp với chế độ thuốc men phù hợp với đặc điểm bệnh lý của người cao tuổi. Ngoài ra sự giúp đỡ động viên của gia đình và xã hội có vai trò rất quan trọng. Chính sự hoạt động trong các câu lạc bộ sức khỏe người cao tuổi góp phần củng cố sức khỏe thể chất và tinh thần cho người cao tuổi. Các biện pháp điều trị không dùng thuốc như khí công, thái cực quyền thường có hiệu quả lớn ở những người cao tuổi.
PHÂN LOẠI BỆNH LAO XƯƠNG KHỚP
Lao xương – khớp là một trong những thể lao hay gặp nhất sau lao phổi. Trong bệnh lao xương – khớp, vi khuẩn lao (BK) xuất phát từ tổn thương lao phổi hoặc lao hạch rồi lan theo đường máu đến khu trú và gây bệnh ở các đốt sống, các khớp háng, gối, cổ chân, khuỷu tay và cổ tay. Lao khớp thường chỉ khu trú ở một khớp đơn độc.
Lao xương – khớp là một trong những thể lao hay gặp nhất sau lao phổi. Trong bệnh lao xương – khớp, vi khuẩn lao (BK) xuất phát từ tổn thương lao phổi hoặc lao hạch rồi lan theo đường máu đến khu trú và gây bệnh ở các đốt sống, các khớp háng, gối, cổ chân, khuỷu tay và cổ tay.
Lao khớp thường chỉ khu trú ở một khớp đơn độc.
Lao đốt sống – đĩa đệm (bệnh Pott)
Ngày nay bệnh này đã ít gặp hơn trước. Bệnh nhân thường là người có tiền sử lao: lao sơ nhiễm nặng, mới mắc lao một cơ quan nào đó (phổi, hạch…). Tổn thương lao hay gặp ở cột sống lưng và cột sống thắt lưng. Cột sống cổ và vùng bản lề cổ – chẩm ít bị lao hơn.
Ðặc điểm của bệnh là các biểu hiện bệnh lý chỉ mờ nhạt, không rầm rộ. Trong một thời gian dài bệnh nhân chỉ thấy đau ít ở cột sống. Nhiều khi bệnh chỉ được phát hiện khi đã có biến chứng: áp-xe lạnh (là loại áp-xe không kèm phản ứng viêm và hình thành chậm), chèn ép tủy. Các tổn thương Xquang xuất hiện chậm: hẹp khe đĩa đệm, ổ phá hủy lớn ở thân các đốt sống, gù, hình ảnh con thoi cạnh đốt sống, biểu hiện của áp- xe lạnh.
Các xét nghiệm sinh học sẽ khẳng định chẩn đoán: test tuberculin trong da bao giờ cũng dương tính rất mạnh, có khi mọng nước (nếu test âm tính, có thể loại trừ được bệnh Pott). Các xét nghiệm tìm BK trong đờm, trong nước tiểu, nếu dương tính sẽ quyết định chẩn đoán, mặt khác cũng chứng tỏ người bệnh còn bị lao ở những cơ quan khác nữa.
Lao khớp háng
Bệnh hay gặp, biểu hiện bằng đau ở bẹn hoặc ở mông, lan xuống đầu gối làm cho bệnh nhân đi lại khập khiễng, teo cơ từ đầu đùi. Sốt, gầy sút, chán ăn. Các tổn thương Xquang xuất hiện chậm: đầu tiên là hình ảnh loãng xương, về sau là hình hẹp khe khớp. Chụp cắt lớp thấy những ổ phá hủy dưới sụn hoặc những ổ viêm xương. Nếu không được điều trị, khớp sẽ bị phá hủy làm hạn chế vận động, các triệu chứng toàn thân nặng lên, xuất hiện các áp-xe lạnh, đặc biệt là ở vùng bẹn.
Lao khớp gối
Biểu hiện bệnh là một u trắng ở đầu gối giống như khi bị viêm một khớp đơn độc mạn tính, kèm theo những dấu hiệu viêm tại chỗ, tràn dịch ổ khớp với dấu hiệu chạm xương bánh chè, dầy màng hoạt dịch.
Lúc đầu, chụp Xquang khớp gối chưa thấy gì bất thường, về sau mới xuất hiện các tổn thương sụn và xương. Cấy nước màng hoạt dịch thường tìm được BK. Nhiều khi phải sinh thiết màng hoạt dịch bằng kim to hoặc trong khi nội soi khớp để tìm những tổn thương mô bệnh học điển hình.
Ðiều trị
Ðiều trị bệnh lao xương – khớp cần phải tiến hành sớm và kéo dài ít nhất là 18 tháng. Ba nội dung điều trị là:
- Ðiều trị nội khoa
Dùng thuốc chống lao: trong 2 tháng đầu, dùng phối hợp bốn loại thuốc rimifon, rifampicine, pyrazinamide, ethambutol. Những tháng sau dùng hai loại rimifon và rifampicine. Cần điều chỉnh thuốc dựa theo kết quả kháng sinh đồ.
- Cố định khớp
Cố định khớp bằng cách sử dụng các giường bột (cho cột sống) và máng bột (cho các chi), thời gian cố định từ 3 đến 6 tháng. Với những trường hợp nhẹ, được chẩn đoán sớm, chỉ cần nằm nhiều, tránh vận động, mang vác nặng, không cần cố định bằng bột.
- Ðiều trị ngoại khoa
Khi có chỉ định mổ thì tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các phương pháp cắt bỏ màng hoạt dịnh, lấy ổ áp-xe, lấy mảnh xương chết, cắt đầu xương, làm cứng khớp, giải phóng chèn ép tủy.
NHỮNG NGUY HIỂM TỪ CĂN BỆNH LAO XƯƠNG KHỚP
Vi khuẩn lao thường bắt đầu gây bệnh ở khớp sau đó mới phá hủy xương. Các xương dễ mắc lao nhất là cột sống, khớp háng, khớp gối... Ở khớp, màng hoạt dịch phù nề, loét mặt khớp, sụn có các nốt lao, củ lao và các ổ tiêu hủy tổ chức. Những ổ áp-xe hình thành, trong đó có mủ, hoại tử bã đậu, ở thân xương có thêm các mảnh xương chết và cả tủy xương cũng bị viêm.
Người bệnh có dấu hiệu nhiễm trùng, nhiễm độc dài ngày như sốt dai dẳng ở mức độ vừa và nhẹ, sốt về buổi chiều, mệt mỏi, kém ăn, xanh xao và đổ mồ hôi trộm. Tuy nhiên, những dấu hiệu này không phải người bệnh nào cũng có.
Nơi xương khớp bị bệnh sưng to nhưng không nóng và không đỏ như những bệnh viêm khớp cấp tính khác. Bệnh nhân đau nhẹ hoặc vừa phải (nếu là ung thư xương thì đau rất nhiều), hạn chế động tác chức năng của khớp. Chẳng hạn, nếu lao cột sống thì không cúi, không ngửa được; lao khớp háng thì không co duỗi được chân... Các khối áp-xe bùng nhùng ở cạnh khớp hoặc đã vỡ để lại các lỗ rò. Có trường hợp mủ lao đi theo các thớ cơ, tạo nên các ổ áp-xe ở xa. Chẳng hạn, ổ áp-xe của lao cột sống thắt lưng có thể nằm ở hố chậu hoặc ổ áp-xe của lao khớp háng xuống tận đùi.
Các dấu hiệu khác có thể gặp là teo các cơ vận động khớp, mất sự cân đối của cơ thể (gù vẹo trong lao cột sống, đi tập tễnh lệch người trong lao khớp háng). Tổn thương lao ở cột sống có thể làm gấp khúc cột sống; những ổ áp-xe lạnh gây chèn ép vào tủy sống có thể làm cho người bệnh bị liệt và rối loạn cơ tròn...
Để chẩn đoán lao xương khớp, phải tìm vi khuẩn lao trong mủ áp-xe hay chất rò; chụp X-quang hay MRI, nội soi sinh thiết qua da các tổn thương ở xương khớp để phân tích các thay đổi về tế bào, nội soi ổ khớp để quan sát rõ hơn và sinh thiết đúng tổn thương hơn.
Về điều trị, chủ yếu vẫn là dùng các thuốc chống lao theo đường toàn thân. Cần để khớp nghỉ tương đối ở giai đoạn đầu chừng 4-5 tuần bằng cách nằm trên giường cứng, không nên nằm trên đệm mềm, cũng không cần bó bột bất động tuyệt đối như cách điều trị trước đây. Sau đó, phải tập vận động khớp để tránh cứng khớp.
Một số trường hợp phải can thiệp ngoại khoa như có ổ áp-xe lớn (cần dẫn lưu mủ, nạo lấy hết xương chết), chèn ép tủy do cột sống gấp khúc, đốt sống xẹp hoặc áp-xe lạnh (cần cắt lá cột sống, dẫn lưu áp-xe).
Bệnh lao ruột chuẩn đoán và điều trị
Chống lão hóa da bằng thiên nhiên
Kinh nghiệm du lịch bụi Cù Lao Chàm
Dấu hiệu và cách phòng ngừa bệnh lao phổi
Mẹo chữa hắc lào hiệu quả
(ST)