Nguyên nhân của bệnh thiếu máu não và chế độ ăn uống hợp lý cho người bệnh
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH THIẾU MÁU CƠ TIM
Bệnh có 2 thểbiểu hiện:
- Thể có đau ngực:khởi đầu đau ngực lúc gắng sức làm việc nặng sau đó đau ngay cả lúc nghỉ ngơi, trầm trọng hơn là nhồi máu cơ tim hoặc tử vong đột ngột.
- Thể không đau ngựccòn gọi là bệnh thiếu máu cơ tim im lặng, cũng khá thường gặp ở người cao tuổi. Trên điện tâm đồ có thể thấy biểu hiện của thiếu máu cơ tim nhưng người bệnh hoàn toàn không thấy đau ngực và đa số những người bệnh này rất chủ quan không lo điều trị, do đó người bệnh có thể bị nhồi máu cơ tim và tử vong đột ngột.
2. Đau ngực do Thiếu máu cơ tim có đặc điểm gì?
Đau thắt ngực điển hình do thiếu máu cơ tim có một số đặc điểm:
- Hoàn cảnh xuất hiệncơn đau ngực: cơn đau thắt ngực thường xảy ra sau khi gắng sức làm việc nặng, xúc động mạnh, sau bữa tiệc thịnh soạn, sau giao hợp, thời tiết quá lạnh cũng dễ làm xuất hiện cơn đau. Nếu cơn đau thắt ngực xuất hiện lúc nghỉ ngơi, không có gắng sức là dấu hiệu báo động tình trạng bệnh nguy hiểm, cần theo dõi và điều trị tích cực để phòng ngừa nhồi máu cơ tim.
- Tính chất của cơn đau: là cảm giác đau ở ngực trái vùng trước tim, đôi khi chỉ thấy khó chịu, hoặc cảm giác nặng bị đè ép sau xương ức lan đến cổ, hàm, vai trái, cánh tay trái.
- Thời gian cơn đau thắt ngực:thông thường chỉ kéo dài vài giây đến vài phút, thường không quá năm phút. Khi cơn đau thắt ngực kéo dài quá 15 - 20 phút phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim. Nếu tình trạng đau ngực kéo dài cả ngày trong nhiều ngày, nhiều tuần nhưng điện tâm đồ vẫn bình thường, cần phải nghĩ đến nguyên nhân khác. Tần suất cơn đau cũng rất thay đổi, có thể vài tuần, vài tháng một lần nhưng nếu nặng hơn là vài lần trong một ngày.
- Triệu chứng kèm theo:đồng thời với đau ngực người bệnh cảm thấy hồi hộp lo âu, cảm giác khó thở, vã mồ hôi, cảm giác nôn, buồn nôn, đánh trống ngực, choáng váng.
Đau thắt ngực là một cảnh báo rất hữu hiệu, tuy nhiên có những trường hợp bệnh không có biểu hiện khiến người bệnh mất cơ hội được điều trị kịp thời.
Vì sao xảy ra thiếu máu cơ tim không đau?
Các cơn thiếu máu cơ tim có triệu chứng đau thắt ngực thường kéo dài hơn một chút và tần suất có đoạn ST chênh xuống nhiều hơn những cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng. Một nguyên nhân khác làm cơn đau không xuất hiện khi thiếu máu cơ tim là do hệ thần kinh. Bệnh thần kinh làm ảnh hưởng đến thần kinh cảm giác hướng tâm thường gặp ở một số bệnh, đặc biệt là bệnh nhân đái tháo đường. Các yếu tố tâm lý hay văn hóa có thể ảnh hưởng đến sự nhận thức đau.
Bệnh nhân có các cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng dường như có ngưỡng gây đau cao hơn và dung nạp với kích thích đau tốt hơn những người có triệu chứng đau thắt ngực. Do vậy, việc dẫn truyền của các tín hiệu đau trong hệ thống thần kinh trung ương góp phần vào sự thay đổi ngưỡng đau hay làm triệu chứng đau thắt ngực không xuất hiện.
Thiếu máu gây ra bởi tăng nhu cầu ôxy do gắng sức thường là thầm lặng. Ghi điện tâm đồ lưu động đã cho ta sự hiểu biết sâu sắc các cơ chế có nhiều tiềm năng của rất nhiều cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng hay có triệu chứng trong quá trình sinh hoạt hằng ngày. Tần số tim khi có cơn thiếu máu được phát hiện bằng ghi điện tim lưu động thường thấp hơn so với tần số tim trong lúc làm nghiệm pháp gắng sức để gây thiếu máu. Điều này gợi ý rằng, co thắt động mạch vành đã đóng góp vào rất nhiều cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng.
Điện tim để phát hiện thiếu máu cơ tim thầm lặng.
Ai dễ mắc thiếu máu cơ tim thầm lặng?
Những bệnh nhân đái tháo đường có một tỉ lệ khá cao bị nhồi máu cơ tim thầm lặng và những cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng đã được chứng minh bằng nghiệm pháp gắng sức và ghi điện tim lưu động. Các cơn thiếu máu cơ tim không triệu chứng có thể xuất hiện ở các bệnh nhân bị bất kỳ một hội chứng thiếu máu cơ tim nào và có thể quan sát thấy ở các bệnh nhân hoàn toàn không có triệu chứng hay ở người có khó chịu ở ngực với một số cơn thiếu máu.
Tỉ lệ mắc bệnh thiếu máu cơ tim thầm lặng thực sự rất khó xác định nhưng có sự phụ thuộc vào tuổi và mức độ trầm trọng của bệnh động mạch vành. Người mắc bệnh động mạch vành thường gặp những cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng hơn là những cơn thiếu máu có biểu hiện đau thắt ngực.
Các gợi ý lâm sàng của thiếu máu cơ tim thầm lặng
Thiếu máu cơ tim không triệu chứng là một thành phần chung của cả hội chứng động mạch vành cấp tính và mạn tính. Do vậy nó có thể có cùng một mức độ lâm sàng quan trọng như thiếu máu cơ tim có triệu chứng. Những chỉ điểm quan trọng của nguy cơ là độ rộng và mức độ trầm trọng của thiếu máu, không phụ thuộc vào việc nó biểu hiện như thế nào và làm thế nào để phát hiện ra và bệnh ổn định hay không ổn định. Khi theo dõi điện tim phát hiện thiếu máu cơ tim thầm lặng, thay đổi điều trị để làm giảm và loại trừ tử vong.
Điều trị thiếu máu và nhồi máu cơ tim thầm lặng
Hầu hết các thuốc và chiến lược can thiệp làm giảm triệu chứng thiếu máu sẽ làm giảm thiếu máu cơ tim không triệu chứng. Các số liệu sẵn có từ các nghiên cứu lâm sàng ban đầu điều trị thiếu máu cơ tim thầm lặng trong đau thắt ngực ổn định đã được tổng kết gần đây. Nitroglycerin có hiệu quả cao, thuốc chẹn bêta giao cảm đôi khi cho thấy có hiệu quả hơn thuốc chẹn kênh canxi. Thuốc chẹn kênh canxi có thể có hiệu quả cao nhất trong phòng ngừa thiếu máu xuất hiện với tần số tim thấp hơn, bởi co thắt động mạch vành có thể là yếu tố nổi trội trong tình huống này. Với bệnh nhân bị thiếu máu cơ tim do bệnh động mạch vành, gánh nặng thiếu máu toàn bộ và không chỉ các triệu chứng có thể là mục tiêu điều trị phù hợp hơn. Thiếu máu cơ tim nặng và kéo dài cho dù đã được điều trị nội khoa tối ưu cần phải xem xét đến khả năng tái tạo mạch cho cơ tim (nong, đặt stent động mạch vành).
Nhồi máu cơ tim là hậu quả của tắc mạch gây ra thiếu máu cục bộ kéo dài trên một diện cơ tim. Khoảng 20% bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp không có triệu chứng hoặc có triệu chứng không điển hình nên không chẩn đoán ra bệnh lúc ban đầu. Nhồi máu cơ tim không đau thường xuất hiện ở người lớn tuổi, nữ giới, đái tháo đường và bệnh nhân sau phẫu thuật. Các bệnh nhân này thường có biểu hiện khó thở hoặc suy tim ứ huyết như là triệu chứng ban đầu. Việc điều trị tương tự như điều trị bệnh nhân có nguy cơ cao cho dù có đau hay không.