Biểu hiện sau khi hiến máu nhân đạo
Cách làm vết thương ngoài da nhanh lành đơn giản hiệu quả
Suy giảm chức năng của gan, hệ cơ quan lớn thứ hai trong cơ thể, thường gây ra những thay đổi trên da, hệ cơ quan lớn nhất cơ thể. Biểu hiện ngoài da có thể là những dấu hiệu đầu tiên của các bệnh lý ở gan,
Suy giảm chức năng của gan, hệ cơ quan lớn thứ hai trong cơ thể, thường gây ra những thay đổi trên da, hệ cơ quan lớn nhất cơ thể. Biểu hiện ngoài da có thể là những dấu hiệu đầu tiên của các bệnh lý ở gan, do đó nhận biết sớm những biểu hiện này có thể giúp phát hiện được những bệnh gan tiềm tàng và có những can thiệp điều trị thích hợp. Các bệnh lý gây suy giảm chức năng gan có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của rất nhiều hệ cơ quan khác nhau trong cơ thể như hệ tiêu hóa, hệ tạo máu, khớp và da... Xơ gan do rượu thường gây ra các biểu hiện ngoài da hơn so với các bệnh gan mạn tính khác.
Vàng da:
là biểu hiện quan trọng nhất của tình trạng tăng bilirubin (sắc tố mật) trong máu, thường có thể được nhận biết khi nồng độ bilirubin vượt quá 2,5 - 3 mg/dL. Màu sắc của da có thể phản ánh mức độ tăng của bilirubin, trong đó, da thường có màu vàng nhạt khi bilirubin tăng nhẹ và màu vàng sậm hoặc ngả nâu khi bilirubin tăng cao. Một trong những chức năng cơ bản của gan là chuyển hóa bilirubin gián tiếp trong máu thành dạng trực tiếp có thể bài tiết qua phân. Các tổn thương tại gan như viêm gan do virut, nhiễm độc gan do thuốc... thường gây tăng cả bilirubin trực tiếp và gián tiếp trong máu.
Sẩn ngứa: có thể là biểu hiện của một bệnh lý ngoài da đơn thuần hoặc nằm trong bệnh cảnh của một rối loạn mang tính hệ thống hoặc do các bệnh lý tại gan. Gan làm nhiệm vụ trung hòa độc tố và đào thải muối mật, nếu chức năng gan bị suy giảm, những tác nhân này có thể bị tích tụ trong cơ thể và lắng đọng ở da, gây kích ứng và sẩn ngứa. Trong các bệnh lý gan có ứ tắc mật như xơ đường mật tiên phát và tắc đường mật do sỏi, tình trạng sẩn ngứa thường lan tỏa nhưng nặng hơn ở chân và tay.
Mặc dù mức độ của sẩn ngứa không có liên quan trực tiếp với nồng độ của các độc tố và muối mật, nhưng các biện pháp điều trị giảm nồng độ muối mật có thể giúp giảm bớt triệu chứng ngứa. Điều trị sẩn ngứa trong bệnh gan thường gặp rất nhiều khó khăn. Điều trị khởi đầu là sử dụng chất resin trao đổi anion có tác dụng hấp thu các phân tử axít mật như cholestyramine, với liều 4g/ngày, tăng dần đến 24g/ngày, chia 2 lần uống trong bữa ăn. Nếu tình trạng sẩn ngứa không đáp ứng với cholestyramine hoặc người bệnh không dung nạp được với thuốc, có thể điều trị thử bằng thuốc chống lao rifampin, thuốc này có tác dụng thúc đẩy chuyển hóa các chất gây ngứa nội sinh và có hiệu quả giảm ngứa do ứ mật khi được dùng với liều khởi đầu 150mg/ngày và tăng dần lên tới 600mg/ngày, tùy thuộc vào đáp ứng lâm sàng.
Bệnh gan thường gây giảm số lượng tiểu cầu và yếu tố đông máu gây tổn thương da.
Các thuốc dòng thứ 3 có thể được dùng thử là các dẫn xuất kháng thuốc phiện như naltrexone và nalmefene. Gạn huyết tương có thể được cân nhắc sử dụng nếu điều trị bằng thuốc thất bại. Các phương pháp điều trị khác mang tính thực nghiệm bao gồm thay huyết tương, điều trị chống ôxy hóa , chiếu tia hồng ngoại và ghép gan.
Sẩn cục: được đặc trưng bởi sự tạo thành các cục rắn chắc, có vảy và ngứa nhiều, thường đi liền với các vết trầy xước, thâm đen hoặc sẹo do gãi thường xuyên. Nguyên nhân thường gặp của sẩn cục trong các bệnh gan là các loại viêm gan do virut như viêm gan C, viêm gan B... Cơ chế chính xác gây ra sẩn cục trong các bệnh gan còn chưa được biết và phác đồ điều trị chuẩn đối với tình trạng tổn thương này vẫn chưa được xác định, tuy nhiên, trong thực tế, điều trị với thuốc kháng histamin và corticosteroid bôi tại chỗ hoặc tiêm tại chỗ có thể giúp kiểm soát triệu chứng ở phần lớn bệnh nhân. Liều thấp của thalidomide cũng đã được dùng thử an toàn và hiệu quả.
Biểu hiện bệnh sao mạch trên da.
Sao mạch:
biểu hiện là các đốm đỏ nhỏ, nổi gờ nhẹ trên mặt da và từ đó tỏa ra các nhánh mạch máu nhỏ, có thể gặp ở mọi vị trí trên cơ thể nhưng thường ở mặt và thân mình, thường gặp trong xơ gan. Bản thân sao mạch thường vô hại và không gây triệu chứng gì cho người bệnh nên không đòi hỏi phải được điều trị.
Ban đỏ ở lòng bàn tay, bàn chân: là tình trạng biến màu đỏ thẫm ở lòng bàn tay bàn chân, thường gặp nhất trên ô mô út. Biểu hiện này có thể gặp trong nhiều loại bệnh lý khác nhau ở gan, nhưng hay gặp nhất là bệnh gan do rượu và xơ gan. Các bệnh lý này gây rối loạn thăng bằng androgen của cơ thể dẫn đến giãn mạch khu trú và nổi ban đỏ.
U vàng: được tạo thành do sự lắng đọng của cholesterol ở dưới da, thường biểu hiện là các mảng mềm, ranh giới rõ, màu vàng và không đau, có thể to ra trong vòng vài tuần. U vàng trong bệnh gan thường là biểu hiện của tình trạng tăng cholesterol máu thứ phát, gặp trong xơ gan ứ mật tiên phát và các bệnh gan có ứ mật khác. Điều trị tổn thương này cần phối hợp giữa dùng thuốc hạ mỡ máu và can thiệp tại chỗ như chiếu laser hoặc phẫu thuật lấy bỏ.
Một số biểu hiện khác: suy giảm chức năng gan thường gây giảm số lượng tiểu cầu và thiếu hụt các yếu tố đông máu, hậu quả gây ra các đám xuất huyết hoặc bầm tím trên da, có thể xuất hiện ngay cả sau các sang chấn nhẹ hoặc tự nhiên. Tăng sắc tố da cũng có thể gặp trong xơ gan và bệnh gan do rượu. Suy giảm chức năng tế bào gan còn có thể gây rụng tóc và các biến loạn ở móng tay, móng chân như bạch sản móng, mất móng.