Ung thư buồng trứng

U ác tính buống trứng thường gặp nhất sau tuổi 50; khoảng 5000 ca được chẩn đoán hàng năm tại Anh. Ung thư buồng trứng thường xảy ra gấp 3 lần ở những phụ nữ chưa bao giờ sinh con, nhưng ít xảy ra hơn ở những người đã có uống thuốc viên ngừa thai. Ung thư này có thể không có triệu chứng trong một thời gian và vào lúc được chẩn đoán nó có thể đã tiến triển.

Chuẩn đoán

Để xác định xem một khối u là ác tính hay lành tính, bác sĩ sẽ tiến hành nội soi ổ bụng qua một thiết bị quan sát làm bằng sợi quang học tinh vi. Dụng cụ này được đưa qua một vết rạch rất nhỏ trên thành bụng sau khi bệnh nhân đã được gây mê toàn thân. Nếu khối u đó quá lớn, phải mổ thăm dò.

 Điều trị ung thư buồng trứng

Tất cả các cục u sẽ được giải phẫu cắt bỏ và việc xét nghiệm các tế bào bằng kính hiển vi sẽ giúp nhận sạng được tình trạng ác tính của chúng.

Cắt bỏ càng nhiều u ung thư càng tốt, nghĩa là phải cắt bỏ một phần ruột, ống dẫn trứng, buồng trứng và tử cung. Sau khi giải phẫu, bệnh nhân được xạ trị và cho dùng các loại thuốc chống ung thư.

Tiên lượng

Nếu khối u khu trú ở buồng trứng, 2/3 bệnh nhân có thể sống sót hơn 5 năm.

Nếu đã lan ra, chỉ còn 1 trong số 5 bệnh nhân sống được trên 5 năm. Hiện nay, các kỹ thuật và các loại thuốc mới nhằm phát hiện và điều trị ung thư buồng trứng đang cải thiện tỉ lệ sống sót của bệnh nhân. Tuy nhiên, việc đi bác sỹ khám vùng chậu định kỳ hằng năm sẽ hỗ trợ tốt nhất trong việc phát hiện bệnh.


Xét nghiệm về máu để phát hiện ung thư buồng trứng

Một nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã chứng minh rằng sự hiện diện của một loại nội tiết tố mang tên “Inhibin” có thể là dấu hiệu cảnh báo trước của ung thư buồng trứng.

“Inhibin” có thể được nhận dạng chỉ với một xét nghiệm máu đơn giản, dễ thực hiện và ít gây tổn thương hơn phương pháp nội soi ổ bụng (là cách đưa một ống soi xuyên qua thành bụng).

Chất inhibin xuất hiện rất sớm trong tiến trình của bệnh, khoảng 20 tháng trước khi ung thư thật sự lộ ra, vì vậy bệnh có thể được chẩn đoán sớm. Đây là một sự tiến bộ có tầm quan trọng lớn trong việc kiểm soát ung thư buồng trứng, bởi vì khối u có thể lớn nhanh và lan ra trước khi biểu hiện triệu chứng.

Tỷ lệ chữa lành bệnh có liên quan trực tiếp đến việc chẩn đoán sớm, do đó xét nghiệm này có thể làm tăng đáng kể tỉ lệ sống sót. Việc theo dõi các mức độ Inhibin cũng cho biết hiệu quả của việc điều trị, song xét nghiệm này hầu như chỉ thực hiện được ở một vài trung tâm chuyên môn mà thôi.

(St)