Ung thư nhau thai là gì? Nguyên nhân gây ung thư nhau thai. Phòng ngừa và điều trị ung thư nhau thai như thế nào.
Ung thư nhau thai
Ung thư nhau thai hay ung thư nguyên bào nuôi (tên
nguyên thủy: Choriocarcinoma) có tỷ lệ khá cao ở Việt Nam và nhiều nước
châu Á khác so với châu Âu và Mỹ, với khoảng 30/1.000 ca sinh và
2,6/1.000 ca có thai. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, các
tế bào ung thư sẽ di căn đến những cơ quan nội tạng và gây nguy hiểm
cho tính mạng.
Loại ung thư này có nguồn gốc từ sự đột biến gien
của những tế bào nuôi, một thành phần trong số những tế bào chịu trách
nhiệm hình thành các tổ chức có nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai (như: bánh
nhau, cuống rốn...). Tuy nhiên, những nguyên nhân của sự đột biến vẫn
chưa rõ.
Người ta ghi nhận ung thư nhau có thể xảy ra trong
một lần mang thai và ở những phụ nữ có tiền căn sản khoa bất thường
trước đó như: thai trứng (chiếm đến 50% các trường hợp ung thư nhau);
xảy thai tự nhiên (khoảng 20%); do thai lạc chỗ nằm ngoài tử cung (chỉ
2%).
|
Khi bệnh nhân có
nghi ngờ bị ung thư nhau, cần làm một số khảo sát và xét nghiệm cận lâm
sàng để hỗ trợ thêm cho việc chẩn đoán.
Ảnh minh họa.
|
Những biểu hiện
Đa số các trường hợp ung thư nhau thai thường không
có dấu hiệu báo trước đến khi bệnh bộc phát. Khi đã mắc bệnh, các triệu
chứng thường gặp là: thai phụ có thể nôn nhiều và kéo dài, bụng to hơn
tuổi thai; phần lớn các trường hợp đều có dấu hiệu xuất huyết âm đạo, có
thể rỉ rả hoặc ồ ạt. Người bệnh thấy đau bụng từng cơn hoặc liên tục,
kèm theo đau ngực, khó thở, ho ra máu... (nếu đã có di căn phổi). Ngoài
ra, còn có triệu chứng thần kinh nếu di căn não.
Khi bệnh nhân có nghi ngờ bị ung thư nhau, cần làm
một số khảo sát và xét nghiệm cận lâm sàng để hỗ trợ thêm cho việc chẩn
đoán như: Sự tăng cao bất thường của nồng độ Beta HCG trong máu và trong
nước tiểu. Siêu âm bụng sẽ giúp xác nhận tình trạng không có thai trong
tử cung và cho phép các bác sĩ tiến hành nạo lòng tử cung để sinh
thiết. Ngoài ra, qua siêu âm, các bác sĩ có thể phát hiện các di căn ở
gan. Chụp X-quang phổi cũng cần để giúp phát hiện các di căn phổi nếu
có.
Những người dễ mắc ung thư nhau thai
Đã có không ít phụ nữ ngay lần đầu tiên làm mẹ đã gặp phải cú sốc đau
lòng này. Ung thư nhau thai có xuất độ khá cao ở Việt Nam và nhiều quốc
gia châu Á khác so với châu Âu và Mỹ, với khoảng 30/1.000 ca sinh và
2,6/1.000 ca có thai.
Nếu người bệnh không phát hiện và điều trị
kịp thời, các tế bào ung thư sẽ di căn đến những cơ quan nội tạng và
gây nguy hiểm cho tính mạng.
Khi bánh nhau bất thường
Bánh
nhau được cấu thành từ nhiều thành phần, trong đó tế bào nuôi giữ chức
năng chính của bánh nhau, đóng vai trò dinh dưỡng bằng cách tiết ra các
hoạt chất giúp thai phát triển. Có một dạng bệnh lý đặc biệt của
bánh nhau gọi là bệnh lý tế bào nuôi.
Đây là tình
trạng phát triển bất thường của tế bào nuôi, làm hoạt động của các
nhóm tế bào này không bình thường, dẫn đến bánh nhau không làm tốt
nhiệm vụ dinh dưỡng cho thai, hoặc tế bào bánh nhau hoạt động ở nơi khác
không phải ở tử cung, hay vào thời điểm không còn cần tới bánh nhau nữa
(sau sinh, sau sẩy thai).
Nguồn gốc của bệnh là từ sự sai
lệch di truyền của tế bào hợp tử, có thể do giao tử của mẹ
hay của bố hoặc của cả hai. Bệnh bao gồm thai trứng và u tế bào
nuôi các loại (thường gọi chung là ung thư nhau).
Khoảng
20% trường hợp thai trứng tiến triển thành các bệnh u tế bào nuôi, số
còn lại do tế bào nuôi tiếp tục phát triển sau một tình trạng
thai sẩ̉y, thai lưu hay thai ngoài tử cung.
Lý do thúc đẩy
thai trứng trở thành bệnh ác tính hiện vẫn chưa rõ, chỉ thấy tế bào nuôi
trong trường hợp này phát triển và xâm lấn rất dữ vào các mạch máu, gây
ra hiện tượng xuất huyết và hoại tử, cũng như tạo thuận lợi cho di căn
xa theo đường máu:
Thai
trứng: còn gọi nhau nước, do các gai nhau bị phù, thoái hoá
trở thành những tổ chức mất chức năng, chứa nhiều nước trông
giống những chùm trứng mọng nước. 90% các thai trứng toàn phần
có nguồn gốc từ sai lệch tinh trùng.
Triệu chứng thai
trứng là tình trạng nghén rất dữ dội, bụng to nhanh và lớn
hơn nhiều so với tuổi thai, không thấy thai máy tương ứng kích thước
bụng, xuất huyết âm đạo đỏ tươi, không kèm cơn đau bụng, đôi khi
thấy lẫn trong máu là những chùm trắng trong như trứng.
Các
triệu chứng này xuất hiện khoảng cuối ba tháng đầu và kéo dài
đến ba tháng thứ hai. Những dấu hiệu hiếm gặp hơn là bướu cổ, run tay,
lồi mắt, cao huyết áp, thiếu máu, kém dinh dưỡng… Thai trứng có thể
diễn tiến tới sẩ̉y thai tự nhiên, thường gây xuất huyết rất
nhiều lúc sẩy, vào khoảng 15 – 16 tuần trở đi.
U
tế bào nuôi các loại: được chia ra nhóm có di căn hay không di căn,
có nguy cơ cao hay thấp, gồm: thai trứng tồn lưu hay xâm lấn (là
tình trạng thai trứng với mô bệnh xâm nhập và bám chặt lấy
thành tử cung; sau khi nạo xong thai trứng, nồng độ beta HCG vẫn
tiếp tục tăng cao, tổ chức bệnh vẫn còn tồn tại và phát
triển tại tử cung), ung thư nhau (là loại ung thư ác tính của
các tế bào nuôi, cho di căn xa rất sớm, thường di căn phổi, âm
đạo, gan, thận, não…), u tế bào nuôi tại bánh nhau (hiếm gặp
hơn).
Ai dễ vướng ung thư nhau thai?U
tế bào nuôi các loại sẽ được chia làm nguy cơ cao hay thấp, dựa
vào một số yếu tố như tuổi mẹ, tiền căn thai kỳ, khoảng cách
các lần thai, khoảng cách từ lần thai (hay sẩy thai) đến khi phát hiện
bệnh, nhóm máu của mẹ, kích thước khối u, số lượng và vị trí
các tổn thương di căn, nồng độ beta HCG…
Nhóm bệnh này thường
xảy ra trên thai phụ dưới 20 tuổi hoặc nhóm thai phụ lớn tuổi,
quanh tuổi mãn kinh. Thai phụ trên 45 tuổi có nguy cơ bệnh cao gấp 20
lần so với những người dưới 40 tuổi.
Sau khi chẩn đoán đúng
thai trứng, sản phụ phải sắp xếp lấy thai ngay. Thủ thuật này
phải làm ở các cơ sở lớn, đầy đủ phương tiện gây mê hồi sức
và có chuyên môn cao về sản phụ khoa vì khả năng mất máu
nhiều, cũng như khả năng thủng tử cung rất cao vì tử cung to và
mềm nhão.
Sau nạo thai, còn cần theo dõi tình trạng
bệnh nhân và xét nghiệm nội tiết tố bánh nhau để tránh nguy cơ
tiến triển sang bệnh lý ác tính của tế bào nuôi.
Nên
nghĩ đến ung thư nhau thai khi có dấu hiệu chảy máu bất thường một thời
gian ngắn sau sinh, sẩy thai hay thai ngoài tử cung. Để chẩn đoán chính
xác còn phải nhờ đến siêu âm, xét nghiệm nội tiết tố bánh nhau, các xét
nghiệm khác tìm di căn như X-quang phổi, MRI… Sau khi chẩn đoán u tế
bào nuôi, cần chẩn đoán thêm bệnh đã di căn đến các cơ quan
khác chưa, xác định mức độ nguy cơ...
Hoá trị có thể khỏi hoàn toànUng
thư nhau nếu không điều trị đúng cách và kịp thời sẽ làm xuất
huyết trầm trọng, gây ra các rối loạn cơ thể có tính hệ thống,
thậm chí di căn xa và gây tổn hại tại nơi di căn. Tuy nguy hiểm nhưng
bệnh lại rất đáp ứng với điều trị hoá chất, khỏi hoàn toàn
và không để lại di chứng nếu phát hiện và điều trị kịp thời.
Các
loại thuốc để hoá trị đã sẵn có ở Việt Nam và cũng không đắt lắm.
Mặc dù có một số tác dụng phụ khi dùng thuốc (đôi khi khá trầm
trọng) nhưng với phác đồ điều trị ngắn hạn trong thai trứng và
bệnh tế bào nuôi, hầu như các bệnh nhân có thể chịu đựng được
các tác dụng phụ này.
Khi điều trị, nhất thiết phải có
sự theo dõi sát sao của bác sĩ. Trong trường hợp nhiều nguy cơ,
có khi còn cần phẫu thuật lấy đi cả tử cung. Ngoài ra, còn có
yêu cầu tránh thai sau điều trị, thời gian tuỳ mức độ của bệnh,
tối thiểu thường là một năm.
Cách chữa trị
Ung thư nhau là một trong những loại ung thư nhạy với
hóa trị. Nếu chưa bị di căn, bệnh có thể chữa khỏi hoàn toàn. Hiện nay,
phương pháp điều trị chủ yếu là hóa trị và phẫu thuật, trong đó hóa trị
đóng vai trò tiên quyết. Nếu bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ thấp, các bác
sĩ có thể chỉ cho điều trị bằng thuốc Methotrexate hoặc Actinomycin D.
Trong trường hợp nguy cơ cao, sẽ phải phối hợp nhiều loại thuốc.
Sau khi đã hóa trị và đạt được kết quả tốt, bệnh nhân
sẽ được chỉ định phẫu thuật. Nếu bệnh nhân trên 40 tuổi và đã có đủ
con, khuyến cáo tốt nhất là nên cắt tử cung hoàn toàn và cả 2 buồng
trứng. Nếu bệnh nhân dưới 40 tuổi, chưa đủ con và bệnh ở giai đoạn chưa
di căn, các bác sĩ có thể cân nhắc khả năng phẫu thuật bảo tồn. Khi đó,
bác sĩ chỉ "bóc nhân" tức là chỉ lấy bỏ bướu tử cung hoặc âm đạo của
bệnh nhân. Sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được theo dõi chặt chẽ và chỉ
nên có thai lại khi được các bác sĩ "bật đèn xanh".
(ST)