Định nghĩa
Nhiễm trùng thận (viêm đài bể thận) là một loại hình cụ thể của nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) thường bắt đầu vào niệu đạo hoặc bàng quang và đi lên thận.
Một bệnh thận đòi hỏi phải được chăm sóc y tế. Nếu không được điều trị đúng cách, bệnh nhiễm trùng thận vĩnh viễn có thể làm hỏng thận, lây lan đến máu và gây ra nhiễm trùng đe dọa tính mạng.
Nhiễm trùng thận điều trị thường bao gồm thuốc kháng sinh và thường đòi hỏi phải nhập viện.
Các triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng thận có thể bao gồm:
Sốt.
Đau bên (sườn) hoặc háng.
Đau bụng.
Thường xuyên đi tiểu.
Mạnh mẽ, liên tục yêu cầu để đi tiểu.
Cảm giác nóng hoặc đau khi đi tiểu.
Mủ hoặc máu trong (tiểu máu) nước tiểu.
Đến gặp bác sĩ khi
Lấy hẹn với bác sĩ nếu có bất cứ dấu hiệu hay triệu chứng lo lắng. Cũng làm cho một cuộc hẹn nếu đang điều trị cho một bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu, nhưng các dấu hiệu và triệu chứng không được cải thiện.
Nhiễm trùng thận nặng có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm tính mạng. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu có triệu chứng nhiễm trùng thận điển hình kết hợp với nước tiểu có máu hay buồn nôn và ói mửa.
Nguyên nhân
Nhiễm trùng thận thường xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập đường tiết niệu thông qua niệu đạo và bắt đầu nhân lên. Vi khuẩn từ một bệnh nhiễm trùng ở nơi khác trong cơ thể cũng có thể lan truyền qua máu đến thận. Nhiễm trùng thận là bất thường thông qua tuyến đường này, nhưng nó có thể xảy ra trong một số trường hợp - ví dụ, khi một cơ quan ngoại lai, chẳng hạn như khớp nhân tạo, van tim bị nhiễm bệnh. Hiếm khi kết quả nhiễm trùng sau khi phẫu thuật thận.
Yếu tố nguy cơ
Những yếu tố làm tăng nguy cơ bị nhiễm trùng thận bao gồm:
Nữ - giải phẫu. Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh thận hơn so với nam giới. Một người phụ nữ, niệu đạo ngắn hơn nhiều so một người đàn ông, do đó, vi khuẩn có ít khoảng cách để di chuyển từ bên ngoài cơ thể đến bàng quang. Những nơi gần niệu đạo vào âm đạo và hậu môn cũng tạo ra nhiều cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập vào bàng quang. Một khi một bệnh nhiễm trùng trong bàng quang có thể lây lan đến thận.
Tắc nghẽn trong đường tiết niệu. Bất cứ điều gì cản trở dòng chảy của nước tiểu, làm giảm khả năng hoàn toàn trống rỗng bàng quang khi đi tiểu, chẳng hạn như sỏi thận, bất thường cấu trúc trong hệ thống tiết niệu, hoặc ở nam giới, một tuyến tiền liệt mở rộng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh thận.
Làm suy yếu hệ miễn dịch. Điều kiện y tế làm suy yếu hệ thống miễn dịch, chẳng hạn như ung thư, tiểu đường hoặc suy giảm miễn dịch vi rút ở người (HIV), làm tăng nguy cơ mắc bệnh thận. Một số thuốc như thuốc dùng để ngăn chặn từ chối của các cơ quan cấy ghép có tác dụng tương tự.
Thiệt hại cho dây thần kinh xung quanh bàng quang. Dây thần kinh hoặc tổn thương tủy sống có thể ngăn chặn các cảm giác của một nhiễm trùng bàng quang, để không biết khi nó tiến tới một bệnh nhiễm trùng thận.
Kéo dài việc sử dụng một ống thông tiểu. Ống thông tiểu là ống dùng để thoát nước tiểu từ bàng quang. Có thể có một ống thông được đặt trong bàng quang trong và sau khi một số thủ tục phẫu thuật và xét nghiệm chẩn đoán. Một ống thông có thể được sử dụng liên tục.
Một điều kiện mà nguyên nhân nước tiểu chảy không đúng cách. Trong trào ngược bàng quang niệu quản (vesicoureteral), số nhỏ dòng nước tiểu từ bàng quang trở lại lên niệu quản và thận. Những người bị trào ngược vesicoureteral có thể bị nhiễm trùng thận thường xuyên trong thời thơ ấu và có nguy cơ cao mắc bệnh thận trong cả tuổi thơ và tuổi trưởng thành.
Các biến chứng
Nếu không chữa trị, bệnh nhiễm trùng thận có thể dẫn đến khả năng biến chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như:
Suy thận. Một bệnh thận có thể dẫn đến tổn thương thận thường là nguyên nhân gây suy thận mãn tính.
Ngộ độc máu (nhiễm trùng huyết). Thận lọc chất thải khỏi máu và sau đó trở lại trong máu với phần còn lại của cơ thể. Nếu có một nhiễm trùng thận, vi khuẩn có thể lây lan.
Biến chứng mang thai. Phụ nữ phát triển một nhiễm trùng thận trong thai kỳ có thể có tăng nguy cơ mang thai em bé nhẹ cân.
Các xét nghiệm và chẩn đoán
Bác sĩ có thể nghi ngờ có một nhiễm trùng thận dựa trên dấu hiệu và triệu chứng như sốt và đau lưng. Nếu bác sĩ nghi ngờ có mắc bệnh thận, người đó có thể sẽ yêu cầu một mẫu nước tiểu để xác định xem vi khuẩn, máu hoặc mủ trong nước tiểu.
Phương pháp điều trị và thuốc
Thuốc kháng sinh cho bệnh thận
Kháng sinh là những dòng đầu tiên của việc điều trị các bệnh nhiễm trùng thận. Những loại thuốc sử dụng và trong bao lâu phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và các vi khuẩn tìm thấy trong xét nghiệm nước tiểu.
Thông thường, các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng thận bắt đầu rõ ràng thuyên giảm trong vòng một vài ngày điều trị. Nhưng có thể cần phải tiếp tục dùng kháng sinh cho một tuần hoặc lâu hơn. Dùng toàn bộ khóa điều trị của thuốc kháng sinh được đề nghị của bác sĩ để đảm bảo rằng nhiễm trùng là hoàn toàn loại bỏ.
Các bệnh nhiễm trùng thận nặng
Đối với một nhiễm trùng thận nặng, bác sĩ có thể thừa nhận đến bệnh viện. Điều trị ở bệnh viện có thể bao gồm thuốc kháng sinh nhận được thông qua một tĩnh mạch ở cánh tay (tĩnh mạch). Bao lâu sẽ ở lại trong bệnh viện phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng.
Điều trị các bệnh nhiễm trùng thận tái phát
Khi nhiễm trùng thận tái diễn thường xuyên hoặc nhiễm trùng sẽ trở thành mãn tính, bác sĩ có thể sẽ khuyên nên tìm kiếm sự chăm sóc y tế của một chuyên gia có thể xác định nguyên nhân tiềm ẩn và có khả năng điều trị được.
Nhiễm trùng thận thường xuyên có thể là kết quả của một vấn đề y tế cơ bản, chẳng hạn như là một sự bất thường về cấu trúc. Bác sĩ có thể giới thiệu đến một chuyên gia thận (nephrologist) hoặc bác sĩ phẫu thuật tiết niệu thẩm định để xác định xem bất thường tiết niệu có thể gây ra nhiễm trùng. Một bất thường cấu trúc có thể cần phải được phẫu thuật sửa chữa.
Phong cách sống và biện pháp khắc phục
Để giảm đau hoặc khó chịu khi phục hồi từ một bệnh nhiễm trùng thận, cố gắng:
Áp dụng nhiệt. Đặt một miếng đệm nóng trên lưng, bụng hoặc phía bên để làm giảm cảm giác áp lực hoặc đau đớn.
Sử dụng thuốc giảm đau. Đối với sốt hoặc khó chịu, một thuốc giảm đau có chứa acetaminophen (Tylenol...) không aspirin theo chỉ dẫn của bác sĩ, hoặc có một toa thuốc bác sĩ cung cấp.
Uống nước. Uống nhiều nước sẽ giúp đỡ để tuôn vi khuẩn ra từ đường tiết niệu. Tránh các loại nước ép cam quýt, cà phê, rượu và nước giải khát có caffein cho đến khi bệnh đã xóa. Những sản phẩm này có thể làm trầm trọng thêm nhu cầu thường xuyên cấp bách để đi tiểu
Phòng chống
Giảm nguy cơ mắc bệnh thận bằng cách thực hiện những bước để ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiểu. Phụ nữ, đặc biệt có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng đường tiểu nếu họ:
Uống nhiều chất lỏng, đặc biệt là nước. Uống nhiều chất lỏng có thể giúp loại bỏ vi khuẩn ra khỏi cơ thể khi đi tiểu.
Đi tiểu thường xuyên. Tránh giữ lại khi cảm thấy các yêu cầu để đi tiểu.
Rỗng bàng quang sau khi giao hợp. Đi tiểu càng sớm càng tốt sau khi giao hợp sẽ giúp cho sạch vi khuẩn từ niệu đạo, làm giảm nguy cơ nhiễm trùng.
Lau sạch cẩn thận. Đối với phụ nữ, lau từ trước ra sau sau khi đi tiểu và sau khi đi tiêu giúp ngăn ngừa vi khuẩn trong khu vực hậu môn lan sang niệu đạo.
Rửa nhẹ nhàng. Rửa sạch vùng da quanh âm đạo và hậu môn một cách cẩn thận mỗi ngày. Nhưng không sử dụng xà phòng mạnh hoặc rửa mạnh mẽ. Làn da nhạy cảm quanh các khu vực này có thể trở nên bị kích thích.
Tránh sử dụng các sản phẩm phụ nữ ở vùng sinh dục . Sử dụng các sản phẩm nữ tính, chẳng hạn như thuốc xịt khử mùi hoặc douches, trong khu vực bộ phận sinh dục có thể kích thích niệu đạo.
(Theo Dieutri.vn)
Các bệnh lý viêm nhiễm nói chung và viêm thận, bể thận cấp nói riêng thường được điều trị tốt bằng nội khoa. Tuy nhiên sự tuân thủ không đầy đủ chỉ định của bác sĩ hoặc trì hoãn quá trình điều trị có thể làm bệnh ngày một nặng hơn và dẫn tới nhiều biến chứng nguy hiểm tới tính mạng.
Bệnh thường biểu hiện rầm rộ
Viêm thận cấp. |
Các dấu hiệu nhiễm khuẩn xuất hiện rầm rộ. Bệnh nhân đột ngột sốt cao, rét run, thể trạng suy sụp nhanh chóng, môi khô nứt nẻ, lưỡi bẩn... Nếu sử dụng thuốc hạ sốt thì giảm đi trong một khoảng thời gian ngắn (một vài giờ) sau đó cơn sốt lại bùng phát trở lại. Kèm theo sốt, bệnh nhân cảm thấy đau ở vùng sườn lưng, có thể đau một bên hoặc cả hai bên, thường là đau âm ỉ nhưng cũng có khi có những cơn đau dữ dội như dao đâm, cơn đau lan xuống vùng bàng quang, thậm chí lan ra cả bộ phận sinh dục ngoài. Vỗ vùng hố sườn lưng bệnh nhân có phản ứng, đau, tức, rất có giá trị nhất là khi đau một bên.
Hội chứng bàng quang thường có nhưng không phải trong tất cả mọi trường hợp như đái buốt, cảm giác nóng rát, đái rắt (mót đái, phải rặn liên tục), đái đục, cũng có trường hợp đái ra máu. Trong máu, bạch cầu tăng, đa nhân trung tính tăng, có thể có nhiễm khuẩn huyết. Khi urê, creatinin máu tăng cao là có suy thận cấp hoặc đợt cấp của suy thận mạn.
Ngoài ra một số bệnh nhân còn có biểu hiện chán ăn, ăn không ngon, buồn nôn, nôn, bụng trướng, cơ thể mệt mỏi rã rời. Bệnh thường tiến triển tốt và hồi phục hoàn toàn nếu được điều trị sớm, đúng thuốc sau vài ngày sẽ cắt được cơn sốt, nước tiểu trong trở lại sau 1- 2 tuần. Nhưng nếu điều trị muộn hoặc không đúng thì bệnh dễ tái phát, chuyển thành mạn tính, suy thận, hoại tử núm thận, ứ mủ thận, nhiễm khuẩn huyết, tăng huyết áp... những biến chứng này có thể làm bệnh nhân tử vong.
Các trực khuẩn gram (-) là nguyên nhân chính
Nguyên nhân là do vi khuẩn, đa số do trực khuẩn gram (-) như nhiễm Secheria Coli, trực khuẩn mủ xanh (pseudomonas Aerugnosa). Cũng có trường hợp nhiễm tụ cầu vàng gây bệnh (S. Aureus). Các vi khuẩn này thường xâm nhập vào đài bể thận theo đường tiết niệu, sinh dục, bắt đầu từ bộ phận sinh dục ngoài, niệu đạo, bàng quang, niệu quản rồi đến đài, bể thận. Nhiễm khuẩn đa số là theo đường ngược dòng gây viêm ở đài bể thận rồi vào tổ chức kẽ của thận. Cũng có thể đi theo đường máu hoặc bạch huyết vào thận. Tình trạng viêm nhiễm cấp tính này cũng có thể do vi khuẩn theo đường máu, bạch huyết xâm nhập vào thận.
Những yếu tố như sỏi thận, sỏi tiết niệu, viêm hoặc u tuyến tiền liệt, giao hợp không bảo đảm vệ sinh, phụ nữ có thai, đặt sonde bàng quang... đây là những điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập gây ra tình trạng viêm nhiễm cấp tính. Cần thăm trực tràng, đặc biệt ở người cao tuổi, để phát hiện u tuyến tiền liệt. Phải chụp thận, thường chụp thận tĩnh mạch (UIV), siêu âm thận để phát hiện sỏi thận, dị dạng, khối u, lao thận, viêm bể thận mạn, hoặc chụp bàng quang để phát hiện hiện tượng trào ngược nước tiểu. Cần thiết cấy vi khuẩn và xét nghiệm kháng sinh đồ.
Phòng và điều trị bệnh thế nào cho hiệu quả?
Đây là bệnh do nhiễm khuẩn do đó vệ sinh thân thể, nhất là vệ sinh ở bộ phận sinh dục rất quan trọng. Thói quen tắm ao hồ, sông suối của nhiều người ở các vùng nông thôn rất dễ nhiễm khuẩn ở đường sinh dục, khi đó vi khuẩn sẽ ngược dòng tiến sâu vào bàng quang, tiết niệu, thận. Cần có thói quen vệ sinh trước và sau khi quan hệ tình dục, phụ nữ có thai càng đặc biệt chú ý vệ sinh cơ thể vì khi có thai những thay đổi ở môi trường âm đạo rất dễ bị nhiễm khuẩn, nhiễm nấm. Đối với các bệnh viêm nhiễm ở đường tiết niệu cần được điều trị triệt để.
Chính vì các biểu hiện của viêm thận, bể thận cấp rất đa dạng nên dễ làm nhầm lẫn với những triệu chứng viêm nhiễm khác. Do đó muốn chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành các xét nghiệm về công thức máu, hóa sinh máu, nước tiểu, siêu âm bụng, chụp Xquang, hoặc chụp cắt lớp bụng.
Tiến triển thường là tốt nếu điều trị kháng sinh đúng và đủ liều, các triệu chứng lâm sàng thường khỏi nhanh, nhiệt độ giảm, tiểu tiện nhanh trở lại bình thường (nước tiểu trở lại bình thường sau 1 đến 2 tuần), bạch cầu niệu giảm, bạch cầu máu cũng giảm. Đây là bệnh do vi khuẩn gây ra nên kháng sinh là biện pháp quan trọng được sử dụng điều trị, đặc biệt là các kháng sinh có tác dụng tốt đối với vi khuẩn gram (-). Điều trị triệu chứng theo từng trường hợp, nếu sốt cao, đau phải dùng thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau, đặc biệt phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh để điều trị triệt để như sỏi thận, sỏi tiết niệu, các bệnh viêm nhiễm ở bàng quang, tiền liệt tuyến, âm đạo...
Nếu điều trị không đúng bệnh sẽ tái phát nhiều lần, chuyển thành mạn tính, tăng huyết áp, suy thận, bệnh nhân có thể tử vong do nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn hoặc hội chứng urê máu cao.
(Theo Sức khỏe & Đời sống)
Tôi 34 tuổi, vừa rồi bị đau lưng, đái buốt và sốt cao. Tôi đi khám thì bác sĩ bảo bị viêm bể thận cấp và cho điều trị tích cực. Đến nay tôi đã khỏi bệnh, tuy nhiên tôi muốn hiểu biết rõ hơn về bệnh này và các thuốc điều trị bệnh ra sao. Xin quý báo giúp tôi, tôi xin cảm ơn!
Đào Thị Lụa (Bắc Ninh)
Viêm bể thận là bệnh viêm cấp tính tổ chức kẽ của thận do nguyên nhân nhiễm khuẩn, thường là nhiễm khuẩn gr (-), nhiễm khuẩn đa số theo đường ngược dòng gây viêm ở đài bể thận, vào tổ chức kẽ của thận, cũng có thể đi theo đường máu, bạch huyết.
Người bệnh có biểu hiện sốt cao rét run, sốt cao dao động. Môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở hôi. Thể trạng suy sụp nhanh. Có khi có nhiễm khuẩn máu kèm theo đau vùng hố lưng một bên hoặc hai bên, thường là đau âm ỉ, có khi đau dữ dội, đau lan xuống dưới; tiểu buốt, tiểu dắt, nước tiểu có màu đục như nước vo gạo, có thể có máu, mủ.
Để điều trị, nhất thiết phải được các bác sĩ thăm khám cẩn thận, làm các xét nghiệm rồi mới chỉ định dùng thuốc. Cần dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ, nếu không có điều kiện làm kháng sinh đồ thì nên lựa chọn kháng sinh có tác dụng với trực khuẩn gr (-). Kháng sinh nhóm quiinolon là tốt nhất (ciprofloxacine, fefloxacine, levefloxacine...). Nên dùng kháng sinh kéo dài từ 10 - 15 ngày. Cần điều trị 2 đợt cách nhau 1 tuần cho dù xét nghiệm vi khuẩn niệu đã âm tính.
Khi có suy thận thì tránh dùng những kháng sinh độc cho thận như gentamycin, tetracycline.
Bệnh nhân cần uống nhiều nước, uống nước lọc hoặc nước quả ép trong những ngày đầu, nếu có vô niệu thì kiêng rau quả và hạn chế nước. Bù nước và điện giải bằng đường truyền tĩnh mạch. Nếu có suy thận thì phải ăn giảm đạm.
Bệnh được phát hiện sớm và điều trị kháng sinh đúng và đủ liều, các triệu chứng lâm sàng thường giảm nhanh, hết sốt, bạch cầu máu và niệu giảm. Nước tiểu trở về bình thường sau 1 - 2 tuần. Nếu điều trị không đúng thì thường tái phát nhiều lần và trở thành mạn tính hoặc có thể tử vong do nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn hoặc hội chứng ure máu cao.
BS. Nguyễn Thị Thúy
VIÊM BỂ THẬN CẤP VÀ ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐÔNG Y
Tự tham khảo cách chữa:
Là một bệnh nhiễm khuẩn vào tổ chức kẽ của Thận, vì vậy, còn gọi là Viêm Thận Kẽ.
Đông y xếp vào loại ‘Nhiệt Lâm’, ‘Yêu Thống’.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ viết: ‘Lâm bệnh, tiểu ra như nước vo gạo, bụng dưới đau cứng, lan đến giữa rốn’.
Trên lâm sàng cho thấy đa số thuộc thực chứng, nhiệt chứng.
Vi khuẩn có thể xâm nhập vào Thận theo hai đường chính:
a- Đường máu: Do các ổ nhiễm khuẩn địa phương như Amidal viêm, xoang viêm,bệnh ở răng miệng, ruột dư, túi mật, bệnh đường ruột... từ đó chuyển vào thận.
b- Đường ngược chiều: Từ một viêm nhiễm đường sinh dục, tiết niệu dưới lan lên: tử cung viêm, âm đạo viêm, bàng quang, tiền liệt tuyến...
c- Đường hạch bạch huyết ít gặp xẩy ra.
Bệnh thường xẩy ra trên cơ sở đã có một tổn thương địa phương ở bể thận như sự ứ nghẽn nước tiểu gây tắc, giãn đài thận, bể thận... phụ nữ có thai, tử cung đè vào niệu quản hai bên, sỏi bể thận, đài thận, niệu quản...
Vi Khuẩn: Đứng hàng đầu là E. Coli 40-70%, Tụ cầu khuẩn, Liên cầu khuẩn...
Thường có liên hệ với Thận và Bàng quang. Thận hư, Bàng quang có thấp nhiệt là nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh.
Đa số do ăn các thức ăn cay, nóng, nhiều chất béo hoặc uống rượu nhiều quá, sinh ra nhiệt, dồn xuống hạ tiêu gây nên bệnh. Hoặc do bộ phận sinh dục bị rối loạn, uế trọc xâm nhập vào bàng quang, gây nên thấp nhiệt, thấp nhiệt làm cho khí hóa bị ngăn trở, đường tiểu không thông lợi khiến cho tiểu buốt, tiểu nhiều, đau, tiểu ra máu.
Triệu chứng:
a- Dấu hiệu nhiễm khuẩn khu trú vào vùng Thận:
+ Sốt, có thể cao đến 39-40o, có khi có cơn rét run.
+ Đau vùng thận một bên hoặc cả hai bên.
b- Tiểu đục, tiểu gắt (50% trường hợp)
c- Tiểu ra protein: 80-90%. Trường hợp tiểu ra protein nhẹ thì từ 40-50mg% đến 150-300mg%, ít khi quá 300mg% (tức 3g/lít nước tiểu), thường dưới 5g/24 giờ. Trong trường hợp cấp tính mức protein thường trên dưới 300mg%.
d- Tiểu ra bạch cầu: là dấu hiệu phổ biến nhất trong trường hợp cấp tính.
+ Tiểu ra hồng cầu (máu), ít phổ biến hơn.
Pháp: Thanh nhiệt, trừ thấp, lợi niệu, thông lâm.
Bài thuốc
+ Thận Vu Thanh Giải Thang (Thiểm Tây Trung Y Tạp Chí )
Bạch đầu ông | 30 | Liên kiều | 30 | Hoạt thạch đều | 30 | ||
Hoàng bá | 15 | Mộc thông | 15 | Biển súc | 15 | Cù mạch | 15 |
Phục linh | 15 | Hoàng liên | 10 | Cam thảo | 10 |
Sắc uống. Điều trị 14-90 ngày
Đã trị 67 ca, nam 12, nữ 55.tuổi từ 12 đến 67. Trong đó, cấp tính 45 ca, mạn tính 22. khỏi hoàn toàn 21 (cấp tính 16, mạn tính 5). Có hiệu quả 24 (cấp 19, mạn 5). Có chuyển biến 18 (cấp 9, mạn 9). Không hiệu quả 4 (cấp 1, mạn 3). Đạt tỉ lệ 94%.
+ Bát Chính Ô Linh Thang (Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1991: 6, 16):
Thổ phục linh | 30 | Cù mạch | 20 | Biển súc | 18 | ||
Xa tiền tử | 18 | Hoạt thạch | 18 | Mộc thông | 12 | Đăng tâm thảo | 5 |
Ô dược | 10 | Sơn chi(sao), | 10 | Đại hoàng (sống) | 10 |
. Cứ 6 giờ uống một lần.
TD: Thanh lợi thấp nhiệt. Trị bí tiểu cấp tính do viêm nhiễm.
Đã trị 60 a, nam 24, nữ 36. Tuổi từ 6 đến 64. có dấu hiệu sợ lạnh, sốt 38-39,5oC, lưng đau, bụng dưới trướng đau, tiểu nhiều, đường tiểu sưng, đau, rát hoặc tiểu ra máu hoặc tiểu ra sỏi. Vùng Thận đau. Xét nghiệm nước tiểu có albumin, bạch cầu, hồng cầu. Sau khi uống thuốc, khỏi 45 ca, có chuyển biến 12, không kết quả 3. Đạt tỉ lệ 95%. Thuốc uống ít nhất 5 ngày, nhiều nhất 45 ngày. Trương hợp mạn tính, phải uống trên 10-15 ngày mới thấy có kết quả.