Khả năng cao trào của một phụ nữ có mối quan hệ chặt chẽ đến các mặt đời sống nội tâm của người 'phụ nữ đó. Ví dụ tâm trạng, mối quan hệ giao lưu, 'mơ ước cũng như khả năng tự điều tiết.. Sự xuất hiện của một người lạ sẽ làm xáo trộn thế giới nội tâm cũng như mối quan hệ xã giao. Thảo luận về điểm xuất phát của yếu tố cá nhân sẽ thấy rằng, đầu óc con người luôn luôn sinh ra những sự tưởng tượng trái với ý muốn của mình, lại còn bị nhiễu loạn bởi các yếu tố ngoại cảnh như tiếng ồn, cảnh quan mùi vị xung quanh. Mọi sự kích thích ngoại cảnh đó đều được truyền đến đại não ngoài ý muốn của chúng ta. Tuy nhiên, nó không nhất thiết gây ra phản ứng tích cực. Vì sự hoạt động của đại não luôn luôn bận rộn và phức tạp, nó có thể săn sàng bỏ qua những tín hiệu kích thích đó. Những hoạt động này chủ quan con người không thể nhận biết được. đó là một số tế bào trong vỏ đại não bị đánh thức một cách hoàn toàn bất ngờ, từ đó tạo ra bối cảnh thúc đẩy mạnh mẽ việc cho ra đời một ý nghĩa hoặc quyết định một cách liên tục. Ngược lại, khát vọng tình dục có thể ức chế các cảm giác khác thông qua tác động vào đại não tăng cường ý thức tự giác, chấp nhận hiệu lực của thuốc, hoặc trấn áp nỗi sợ hãi.
Nhìn chung, phụ nữ muốn đạt đến cao trào thì phải dựa vào yếu tố nội lực là chính, đó chính là một loại thể nghiệm cá nhân, nó gân như không liên quan đến khả năng hoặc biểu hiện của bạn tình. Vì trong rất nhiều trường hợp, chẳng cần có bạn tình (đương nhiên là nếu có càng tất) hoặc không cần kích thích xác thịt vào vùng khoang chậu, thì chị em vẫn cứ đạt đến cao trào như thường. Ví dụ trong những giấc mơ “yêu”, hoặc khi đọc một tác phẩm văn học, một bức tranh đẹp hoặc các chị có con khi cho con bú đều có thể đạt đến cao trào. Ngược lại, khi chị em không có tâm trạng phấn chấn, thì dù kích thích bao nhiêu vào thể xác cũng không thể xuất hiện cao trào. Điều này nói lên rằng, tâm hồn và thể xác là một thể thống nhất không thể tách rời.
Phụ nữ rất thực dụng, nhưng chị em nhấn mạnh vào sự hoà hợp về mặt tinh thần hơn là sự kết hợp về thể xác. Kết quả điều tra xác nhận rằng, những chị em luôn luôn hoặc phần nhiều cuộc “yêu” đều đạt được cao trào (xếp vào nhóm thứ 1) so với những chị em thỉnh thoảng mới đạt đến cao trào (xếp vào nhóm 2) đều có mức độ vừa ý gần tương tự như nhau trong quan hệ hôn nhân. Thời gian giao cấu kéo dài gần bằng nhau, có nghĩa là hoàn toàn loại bỏ khá năng nam giới có tác dụng quyết định về mặt ách tắc cao trào tình dục của phụ nữ. Kết quả nghiên cứu còn cho biết thêm, những chị em được giáo dục càng cao thì khả n��ng đạt đến cao trào càng mạnh. Chồng của những chị em không bao giờ nếm mùi cao trào thường là 'những người hồi bé được hưởng một nền giáo dục quá nghiêm khắc, sự ràng buộc kỷ luật quá chặt chẽ, còn chồng của những chị em luôn luôn thoả mãn tình dục thường thuộc dạng đàn ông nhanh nhẹn hoạt bát có năng khiếu xã giao. Tý lệ ly hôn giữa hai loại người này cũng giống nhau. Còn đối với người vợ, nhân cách là yếu tố quan trọng duy nhất về mặt tâm lý. Những chị em khó đạt đến cao trào thường cho rằng, nguyên nhân là do mình quá nhậy cảm, tính khí thất thường, hay ân hận, thích nâm vật theo người khác và thiếu lòng tự tin. Còn các bậc cha mẹ của chị em này phải chăng không đánh giá đúng mức ý nghĩa của đời sống tình dục, hoặc ngăn cấm những khêu gợi về tình dục.
Qua một cuộc diều tra đối với 1026 chị phụ nữ phát hiện thấy rằng. trong 90% số chị em đạt đến cao trào thì có 59% chị em đánh giá quan hệ hôn nhân của mình rất hạnh phúc. Tuy nhiên trong sô chị em tự nhận là hôn nhân không hạnh phúc vẫn có 38% chị em có 90% số lần “yêu” vẫn đạt đến cao trào: chứng tỏ rằng quan hệ hôn nhân hạnh phúc hay không cũng không phải là yếu tố quyết định. Điều tra còn cho biết, trước khi vào cuộc, thời gian ôm ấp ve vuốt càng dài thì khả năng đạt đến cao trào càng nhiều. Kết quả thống kê cho rằng. cuộc “yêu” kéo dài 16 phút là giới hạn cao nhất để đại đa số phụ nữ đạt đến cao trào.
Một hiện tượng đáng chú ý nữa là phụ nữ có thể đạt được nhiều lần cao trào. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bị nhiều người phản đối, một nữ bác sĩ thậm chí còn cho rằng như thế là một dạng biểu hiện của triệu chứng hờ hững tình dục.
Cản trở cao trào tình dục (nói cách khác là không có cao trào) tức là chỉ những chị em có ham muốn tình dục, cảm hứng khá mạnh mẽ. Nhưng trong quá trình “yêu”, cho dù được kích thích đầy đủ về mặt cường độ cũng như thời gian, thường xuyên cảm nhận khoái cảm, những biểu hiện phản ứng sinh lý cũng tỏ ra bình thường. Ví dụ âm đạo nhờn ướt, bộ phận sinh dục cương cứng, nhưng cao trào thường xuyên chậm đến hoặc không đến (tức là không có cách biểu hiện như âm đạo co bóp nhịp nhàng hoặc rên rỉ một cách tự phát...). Như vậy mức độ khoái cảm bao giờ cũng ở mức thấp, có thể nói chưa bao giờ cảm thấy thoả mãn hoàn toàn. Tuy nhiên cũng không nên xếp chung họ vào dạng ách tắc chức năng tình dục để xem x��t. Tuy vậy ở họ rất ít có khả năng cùng tồn tại các triệu chứng như hứng thú tình dục kém và khó khêu gợi khát vọng tình dục.
Ách tắc cao trào tình dục ở phụ nữ nói chung bao hàm nội dung. cho dù vận dụng đủ mọi hình thức kích thích mà văn không thể đạt đến cao trào. Trong giao cấu, họ không hề đạt được cao trào nhưng trong khi thủ dâm. dùng máy rung hoặc áp dụng một số các kích thích không thuộc phạm vi giao cấu thì lại có thể đưa đến cao trào, như thế vẫn được coi là diễn biến bình thường không thuộc dạng bệnh lý hoặc cản trở chức năng tình dục. Nếu không cân nhắc điểm này thì kết quả thống kê về cản trở cao trào tình dục sẽ có tỷ lệ cao hơn thực tế rất nhiều. Dạng nguyên phát là những chị em xưa nay chưa hề biết đến cao trào, còn dạng kế phát là những chị em trước đây thường đạt đến cao trào cảnh chỉ những chị em trong những cảnh ngộ đặc biệt nào đó thì không thể đạt đến cao trào. Nếu xem xét về mặt đối tượng hoặc hoàn cảnh, có thể phát biểu theo một cách diễn đạt khác. là, loại vướng mắc toàn phần. Nghĩa là, trong mọi lúc mọ! nơi đều không bao giờ đạt được cao trào. Còn loại có lúc đạt được có lúc không tuỳ theo hoàn cảnh và môi trường thì xếp vào dạng không toàn phần. Chúng ta không nên đổ đồng các dạng nguyên phát, dạng kế phát và trạng hoàn cánh vào một mục chung để thảo luận, hoặc ghép nguyên phát và kế phát vào một dạng, còn hoàn cảnh và toàn phần vào một dạng để xem xét.