Ai cũng đều mong muốn con của mình thông minh, khỏe mạnh, có trí tuệ hơn người , trưởng thành và có đóng góp cho xã hội. Các ông bố và mẹ trẻ luôn gửi gắm nhiều giấc mơ đẹp và niềm hi vọng vô biên của mình vào con cái.
Nhưng một đứa con đần độn không thể tự chăm sóc mình, không có khả năng lao động , nói không ra câu, suốt đời phải có người chăm bẵm, một đứa trẻ như thế ra đời sẽ làm cho gia đình phải gánh chịu nỗi bất hạnh to lớn, đau khổ về tinh thần, mệt mỏi về thể xác, gánh nặng kinh tế đè nặng lên vai. Vậy làm thế nào để có thể tránh đẻ ra con đần độn. Đặc biệt là một phụ nữ sau khi đẻ ra con đần độn thì cần phải chú ý những điều gì?
Trước hết phải phân tích cụ thể nguyên nhân sinh ra con đần độn, sau đó căn cứ vào nguyên nhân gây ra bệnh để tìm ra biện pháp dự phòng phù hợp. Nguyên nhân sinh con đần độn có rất nhiều, nhưng tựu chung có thể chia thành 2 loại: tính bẩn sinh và tính hậu sinh (sau khi sinh).
Tính bẩm sinh là lúc thai nhi ở trong bụng mẹ (trước khi chào đời) đã mắc bệnh, chủ yếu có bênh di truyền, như đần độn bẩm sinh, bệnh đao, úng não, bệnh ngu đần ( tay- sachdisease), sinh trong tử cung, tức là chỉ bệnh thiểu năng trí tuệ của thai nhi do tác hại không thể cứu vãn của thai nhi đang phát triển, đó là trường hợp người mẹ trong thời ki mang thai mắc bệnh sởi, thiếu dưỡng khí, trúng độc oxit cacbon, chiếu Xquang , tiếp xúc với chất độc hại, uống nhiều thuốc an thần và thuốc chữa động kinh, thiếu một số nguyên tố vi lượng.
Tính hậu sinh là chỉ mắc bệnh khi từ trong bụng mẹ chui ra hoặc sau khi sinh. Nếu như xảy ra thương tích, xuất huyết trong đầu, thiếu dưỡng khí, ngạt thở lúc chui ra từ trong bụng mẹ thì sau khi sinh trẻ sơ sinh sẽ có vết thương ở trong đầu, dễ lây nhiễm bệnh, viêm não, đường hô hấp…
Làm rõ nguyên nhân gây bệnh, chúng ta có thể áp dụng biện pháp phòng tránh cụ thể để tránh con đần độn.
Do tác hại của bệnh di truyền nên khả năng lại đẻ con mắc bệnh tương tự khi mang thai ở lần tiếp theo lơn hơn rất nhiều so với người thường.Vì vậy khi mang thai ở lần tiếp theo thfi cần phải đến bệnh viện kiểm tra kỹ và tiến hành từ vấn đề di truyền học, nếu như xác suất sinh con mắc căn bệnh tương tự rất lớn, thì tốt nhất là không nên sinh con.
Nếu như xét thấy thực sự cần sinh thêm một lần nữa thì nhất định phải nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ và kiểm tra định kì, khi cần thiết thì phải tiến hành chẩn đoán kiểm tra thai nhi trong bụng mẹ, phát hiện kịp thời tình hình khác thường để quyết định có nên tiếp tục mang thai nữa hay không.Nếu bố mẹ mắc bệnh đần độn hoặc thiểu năng trí tuệ thì nên cố sức tránh kết hôn và đẻ con.
Đối với bệnh mang tính bẩm sinh trong tử cung và bệnh phát ra sau khi ra đời, nếu chú ý tránh được những nhân tố bất lợi thì có thể không sinh con đần độn lần thứ hai mà sinh được con khỏe mạnh. Cần tăng cường giữ gìn sức khỏe trước và sau khi đẻ, tích cực xử lý khi mang thai có nguy cơ cao, chạy chữa bệnh máu thiếu oxy của thai nhi ở trong bụng mẹ, hết sức giữ gìn trong thời gian mang thai đặc biệt là thời kỳ đầu tránh để nhiễm bệnh sởi , cảm cúm và các bệnh có vi rút khác, hạn chế đến nơi đông người nhât là trong lúc có dịch cúm.
Trong thời kỳ mang thai, tránh tiếp xúc với tia Xquang, các chất độc hại như nhôm, oxit cacbon… kiêng hút thuốc, uống rượu, tăng cường chất dinh dưỡng, cải thiện tình hình dinh dưỡng của người mang thai, tránh dùng các loại thuốc có thể gây dị dạng cho thai nhi, lựa chọn phương thức sinh nở phù hợp, chú ý tránh gây thương tích khi đẻ, tránh dùng kẹp lôi thai nhi ra, tránh dùng ống hút, tránh mổ đẻ… Cần xử lý thận trọng và cấp cứu kịp thời khi thai nhi bị ngạt, tích cực chữa trị các căn bệnh của trẻ sơ sinh như bạch hoàng đản.
Chỉ có như thế mới có thể đảm bảo để một bà mẹ sinh ra con khỏe mạnh sau khi đã sinh con đần độn, tránh được sự tái diễn bi kịch lần trước.
(ST)