Bản sắc văn hóa Việt ở Nam bộ vốn thống nhất trong sự đa dạng với những sắc thái văn hóa từ các dân tộc khác nhau. Về truyền thống phương Nam với Nam Bộ nói chung và Sài Gòn nói riêng là miền đất được tập hợp bởi các dân tộc người Việt sinh sống đan xen giữa các dân tộc: Chăm, Khơme, Hoa,…. Do đó, cùng với phong tục tập quán người Việt các văn hóa của dân tộc khác đã tạo nên một văn hóa Sài Gòn rất khác.
Thông thường, các gia đình chỉ cử hành lễ hỏi vài ngày trước khi đám cưới. Như truyền thống, hôn lễ chính cũng cử hành tại gia đình. Đại diện nhà trai bước vào trước, mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. Hai bên giới thiệu cho biết qua họ hàng của nhau rồi tặng nữ trang, tiền mặt cho cô dâu chú rể, sau đó là lễ lên đèn (thắp nến). Rồi bên cô dâu được rước về phía nhà trai, có thể có một tiệc mặn nho nhỏ để gia đình hai bên kết thân nhau. Xem như phần lễ kết thúc.
Phong cưới hỏi miền nam - lễ gia tiên (Ảnh: sưu tầm)
Thường thì tiệc cưới sẽ được tổ chức vào buổi tối. Đây là lúc bạn bè thân quyến hai họ có dịp ăn uống cười đùa thoải mái với nhau chứ không còn vẻ trịnh trọng, nghiêm cẩn như khi làm lễ. Do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc hôn nhân của người Việt xưa khá công phu và phức tạp.
Phong tục cưới hỏi miền Nam - đón dâu (Ảnh: Sưu tầm)
Ngày nay, do nếp sống đã thay đổi nên lễ cưới hỏi ngày càng xa rời với nguyên gốc. Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ). Do vậy, có một số gia đình tổ chức đám cưới quá xa hoa gây phản cảm cho xã hội. Ngược lại, một số gia đình muốn giữ nguyên tục lệ xưa, gây khó khăn cho các bạn trẻ quen với nếp sống tất bật vốn không đủ thời gian để làm rình rang. Vì vậy, tổ chức một đám cưới đơn giản mà trang trọng mang nét thuần Việt vẫn là điều chúng ta muốn hướng đến.
Phong tục cưới hỏi người Nam Bộ xưa
Trang phục lễ cưới người Việt
Bản sắc văn hóa Việt ở Nam bộ vốn thống nhất trong sự đa dạng với những sắc thái văn hóa từ các dân tộc khác nhau. Về truyền thống phương Nam với Nam Bộ nói chung và Sài Gòn nói riêng là miền đất được tập hợp bởi các dân tộc người Việt sinh sống đan xen giữa các dân tộc: Chăm, Khơme, Hoa,…. Do đó, cùng với phong tục tập quán người Việt các văn hóa của dân tộc khác đã tạo nên một văn hóa Sài Gòn rất khác.
Và chuyện cưới sinh của người Việt sống tại Nam bộ là một minh chứng cho sự khác nhau giữa văn hóa của các dân tộc sinh sống tại đây.
1.Đám cưới người Việt
Theo truyền thống xưa của người Việt, đám cưới là nghi lễ quan trọng trong nhất của đời người.
Cô dâu và Chú rể làm lễ trước bàn thờ tổ tiên
Tập tục đám cưới người Việt bao gồm sáu lễ sau:
-
Lễ Nạp Thái: sau khi hai bên nhà trai và gái đã đính ước, nhà trai sẽ nhờ người mai mối đem rượu đến nhà gái để tỏ ý đã kén chọn nơi ấy
-
Lễ Vấn Danh: nhà trai sẽ nhờ người mai mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh của cô gái
-
Lễ Nạp Cát: báo cho nhà gái biết đã bói được quẻ tốt và việc hôn nhân nhất định sẽ cử hành
-
Lễ Nạp Tệ (nạp trưng): nộp sính lễ cho nhà gái, thế là việc hôn nhân đã hình thành
-
Lễ Thỉnh Kỳ: xin định ngày giờ để rước dâu
-
Lễ Thân Nghinh: nhà trai mang lễ đến nhà gái để rước dâu về.
Đặc biệt người Việt Nam bộ xưa chú trọng nhất đến Lễ hỏi, các sính lễ nhà trai đem đến nhà gái trong dịp này màng những nét rất riêng của văn hóa Nam Bộ, các sính lễ đều là số chẵn, gồm có:
- Khai trầu rượu, tiền cưới
- Cặp đèn hòa lạp kết hoa
- Mâm trầu cau: 36 trái cau và 64 lá trầu (tượng trưng cho 64 quẻ trong kinh dịch)
- Mâm trà rượu (hoặc cặp ché rượu)
- Mâm bánh
- Mâm trái cây
- 1 con heo sống (heo đứng củi)
Ngoài ra, nhà trai còn đem nữ trang đến cho cô gái, thường là đôi bông tai, đôi xuyến, kiềng, dây chuyền,…có thể bằng vàng, bạc hoặc đồng. Dù gia đình nhà trai nghèo đến đâu cũng không thể thiếu đôi bông tai.
Đối với người Việt Nam bộ, đôi bông tai được xem là vật đính ước của cuộc hôn nhân, vậy nên mới có câu hát: “…Một mai thiếp có xa chàng, đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin,…”
Sau này thu lại còn 3 lễ: lễ chạm ngõ, lễ hỏi và lễ cưới
2.Đám cưới người Chăm (IsLam)
-
Trang phục lễ cưới người Chăm
Người Chăm đã sinh sống tại Sài Gòn lâu đời, do đó phong tục người Chăm cũng ảnh hưởng khá sâu sắc đến văn hóa người Việt. Tập tục truyền thống cưới hỏi của người Chăm đơn giản hơn so với người Việt, gồm có bốn lễ:
-
Lễ Nao Kha Da (lễ dạm hỏi): nhà trai nhờ người làm mai đến nhà gái thỏa thuận về tiền dẫn cưới và thời gian tiến hành các lễ tiếp theo.
-
Lễ Clok Pa Nôith (lễ hỏi): nhà trai mang sính lễ gồm: trầu, cau vài vóc, nữ trang… và công khai số tiền đồng, tiền cưới.
-
Lễ Chon Khal Ao (lễ tặng quà): trước lễ cưới nhà trai đem biếu cô gái những món quà cho ngày cưới và những vật dụng sinh hoạt gia đình
-
Lễ Pa Khah (lễ cưới): diễn ra trước sự chứng kiến của hai họ người chủ hôn đại diện cho nhà gái gọi là ông Wali tuyên bố gả cô gái cho chàng trai cùng với số tiền đồng và tiền cưới, chú rể đáp lời ưng thuận. Nếu lời đáp không chọn vẹn sẽ là điềm không may mắn cho đôi vợ chồng.
Kết thúc hôn lễ mọi người đọc Kinh Koran và chúc mừng đôi vợ chồng trẻ.
3.Đám cưới người Khơ me
Trang phục lễ cưới người Khơme
Người Khơ me coi ngày tổ chức đám cưới gả con theo lịch tháng của dân tộc, theo phong tục cổ truyền hôn lễ gồm có ba lễ:
-
Lễ Sđâyđolđông (lễ nói): đàng trai chọn Nétphlâuchâu Maha (người làm mai) đi cùng đến nhà gái làm lễ nói. Lễ vật gồm: bánh, trái cây,…tất cả phải là số chẵn
-
Lễ Longmaha (lễ hỏi): hai nhà thông báo cho thân nhân và lối xóm biết chính thức họ trở thành sui gia. Lễ vật nhà trai đem qua nhà gái gồm: 4 nải chuối, 4 chai rượu, 4 gói trầu, 2 đùi heo, 2 con gà, 2 con vịt và một số tiền. Trong lễ này 2 họ sẽ thống nhất ngày làm lễ đám cưới.
-
Lễ Thngaybôs Coltê (lễ cưới): diễn ra tại nhà gái dưới sự điều khiển của Acha Pô Lia (Thầy cúng), gồm các nghi lễ chính sau:
- Tiễn đưa chàng rễ về nhà gái
- Dâng cơm cho sư
- Cắt tóc
- Lạy ông bà
- Rắc bông cau
- Nhập phòng
Nghi lễ được thực hiện theo các điệu nhạc múa cổ truyền.
4.Đám cưới người Hoa
Trang phục lễ cưới người Hoa
Theo nghi lễ hôn nhân thì người Hoa và người Việt có nhiều nét tương đồng, đều theo sách nghi lễ của Chu Hy (một danh Nho đời Tống), nghi lễ người Hoa cũng gồm sáu lễ: nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghi. Cũng như người Việt, nghi lễ người Hoa giờ đây chỉ còn ba lễ: chạm ngõ, hỏi, cưới. Sính lễ nhà trai đem đến cho nhà gái thường là vào lễ hỏi hoặc lễ cưới, gồm: heo quay, vịt, gà, nhiều loại bánh, trái cây, củ sen,…
Phong tục cưới xin của người Miền Nam (Sài gòn)
Hôn lễ chính cử hành tại gia đình. Vì là lễ điều kiện tiên quyết là trang nghiêm, sạch sẽ. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên, trong nhà, trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ “hương đăng hoa quả”.
Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật đưa đến, ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau, truyền thống này nay vẫn giữ, nghe đâu có từ thời Hùng Vương dựng nước. Ðó là nét văn hóa, linh thiêng của dân tộc Việt. Phải có cặp đèn (nến) thật to, trùng với kích thước của đôi chân đèn trên bàn thờ. Ðại diện nhà trai đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. Hai bên bàn bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì giờ vì đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của đàng gái tuyên bố: “Xin làm lễ lên đèn”. Hiểu đó là kiểu “ký tên, đóng dấu” chính thức.
Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất, bắt buộc phải có. Hai ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà. Người trưởng tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do đàng trai đem đến. Rồi thì ông đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Hai ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa). Hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang áp vào hai tay, như khấn vái. Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao cho hai người trợ lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn hiếp chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỷ, sợ gió tạt hoặc tạm thời tắt quạt máy. Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất, không làm bằng sáp ong như xưa nên dể tắt bất ngờ. Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lửa ở ngay cả những Thế vận hội. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi
Các nghi lễ cưới hỏi ở miền Nam và đồng bằng sông Cửu Long
Các nghi lễ cưới hỏi ở miền Nam và đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở khu vực nông thôn người ta còn áp dụng các nghi lễ trong cưới hỏi như: lục lễ (6 lễ)
1. Lễ giáp lời
2. Lễ Thông gia
3. Lễ cầu thân
4. Lễ nói
5. Lễ cưới
6. Lễ phản bái
Trong giai đoạn tiền hôn nhân, trước khi hai họ muốn kết thân với nhau thì phải trải qua ba vấn đề tiền hôn nhân, ngày xưa định hôn nhân là do ông mai, bà mối điềm chỉ - hoặc do cha mẹ đôi bên đính ước, ngày nay do sự tìm hiểu của đôi nam, nữ.
- Lễ giáp lời: Do cha mẹ nhà trai có ông mai hoặc bà mai đến nhà cha mẹ nhà gái, hai bên trực tiếp bàn bạc và dò hỏi tuổi tác để kết cấu suôi gia và bàn việc lập hôn nhân cho con.
- Lễ thông gia: Lễ này do họ nhà trai nhã ý mời họ nhà gái sang chơi cho biết nơi ăn chốn ở của nhà trai.
- Lễ cầu thân: Sau khi hai bên đồng ý gã cưới, bên nhà trai đem cho hai mâm đồ nên người ta còn gọi là lễ cho đồ hoặc là lễ sơ vấn hay còn gọi là bỏ hàng rào thưa, ngày nay thông thường là do đôi nam, nữ quen biết nhau nên bỏ qua ba lễ trên mà chỉ bàn sâu vào vấn đề, (lễ nói và lễ cưới)
* Lễ nói: Bên nhà đàng gái đề bản là lễ đính hôn hay là lễ đăng khoa
Khi họ nhà trai đến: Do ông trưởng tộc hoặc người thông lễ hướng dẫn còn có người bưng khai việc rót rượu, người ta gọi là chú rể phụ lễ nói cũng đi theo trình tự lục lễ.
1. Ông thông lễ nhà trai trình lễ y kỳ (tức là đúng hẹn) xin phéo bên họ nhà gái, cho họ nhà trai nhập gia trình lễ nói, được trưởng tộc bên họ nhà gái nhận lời, cử đại diện ra mời họ nhà trai vào trình lễ nói, chú rể phụ rót rượu ông trưởng tộc nhà trai nói: Hôm nay ngày... tháng... năm được ngày (hoàng đạo) tức được đôi bên đồng ý, cho họ nhà trai nghinh hôn trình sánh lễ nói gồm có: + Một đôi đèn, + Một măm trầu, + Bốn măm quà, rót rượu trưởng tộc nhà trai mời quí tộc bên gái nhận lễ.
2. Trình lễ khai hoà để kiến gia tiên.
3. Rót rượu trưởng tộc nhà trai trình lễ thượng đăng.
- Tức đốt đôi đèn cầy do nhà trai mang tới, chú rể bưng đôi đèn đốt cháy tỏ đưa lên bàn thờ xá trong, xá ngoài rồi đưa sang ra cho hai ông suôi hoặc hai bà suôi hoặc là người đại diện đặt lên bàn thờ đó là "lễ lên đèn".
4. Lễ bái gia tiên (tức là lại ông bà quá vảng)
- Rồi đến lễ bái tộc lại họ, lại ông bà hiện tiền, lại cha mẹ, cô bác, cậu dì, chú thím, chú rể dâng rượu và xá hai xã (chỉ một mình chú rể lại)
- Khi xong trình giao khai việt lại cho trưởng tộc nhà gái, để giới thiệu ông bà thân tộc bên gái giới thiệu song giao lại cho trưởng tộc nhà trai, tộc nhà trai rót rượu trình lễ trao hoa của chú rể trao cho cô dâu.
- Lễ cho đồ nữ trang và trang phục cô dâu, lúc này cô dâu ra cuối đầu chào hai họ và nhận quà nữ trang của nhà trai, đi trở vào trong, khi xưa đôi bông nói là do mẹ ruột đeo, ngày nay được sự đồng ý của họ nhà gái, qua xin ý kiến, họ nhà gái cho phép chú rể đeo cho cô dâu, khi đeo đồ nữ trang xong cô dâu trở ra chào hỏi họ nhà trai bằng lễ cuối đầu, coi như cô dâu một cái cuối đầu sẽ được một món quà giá trị như: tiền bạc, hoặc bộ đồ, do ông bà cô bác nhà trai tặng.
- Ngày giao bạc cưới hoặc hẹn ngày cưới, bao nhiêu thường thì họ nhà gái không đòi, còn họ nhà trai đi cho họ nhà gái một con heo đứng đúng tạ và tiền cưới gọi là tiền chợ, có khi heo đứng tức là (nguyên heo) hoặc heo nằm là quy ra tiền do hai bên bàn tính, đàng gái đi đưa dâu bao nhiêu người để đàng trai lo liệu.
- Trong lễ nói đàng trai sẽ trình thiệp cưới, thiệp ghi rõ ràng, giờ làm đám cưới, giớ rướt dâu, giờ làm lễ bên gái, giờ làm lễ bên trai trao thiệp giữa hai họ.
5. Lễ dỡ măm trầu, trước đây có một mình chú rể dỡ, bẻ trầu đủ đôi, cau đủ đôi để trong cái dĩa đặt lên bàn thờ, ngày nay vì có quay phim chụp ảnh lưu niệm lên ông trưởng tộc xin phép họ nhà gái, cho cô dâu cùng chú rể cùng dỡ mâm trầu, các lễ đã lập xong, vị trưởng tộc nhà trai cho phép cô dâu, chú rể kêu ba má đôi bên là cha mẹ.
- Phần cuối của lễ là cô dâu chú rể cắt bánh kem, khui rượu xâm banh mời quí quan khách nhập tiệc.
6. Trình lễ kiếu, sau khi yến tiệc xong trưởng tộc nhà trai trình lễ kiếu.
- Những điểm tiến bộ của ngày nay:
Ngày xưa đám nói đàng trai phải có măm trầu búp sen, ngày nay chế măm trầu búp sen, nhưng phải có măm trầu trệt, ngày xưa lại tam bộ nhất bái, một mình chú rể lại, ngày nay người chế hết chỉ xá cửu quyền mà thôi, ngày xưa chú rể phải mặc áo dài khăn đống, ngày nay người ta chế áo dài khăn đống chú rể chỉ mặc vét tông, cô dâu thì mặc áo dài duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam.
LỄ CƯỚI, NGƯỜI TA GỌI LÀ (ĐÁM CƯỚI)
- Ở bên nhà gái treo bảng "lễ vu qui".
- Bên gái còn tổ chức cho cô dâu lại xuất giá trước khi về nhà chồng theo sự điều kiện của ông trưởng tộc bên gái.
- Lễ lại xuất giá:
Ông trưởng tộc nhà gái: Kính thưa quí ông, quí bà và cô bac anh chị em, hôm nay là ngày... tháng... năm..., người xưa gọi là ngày (Kiết nhật) nữ chủ hôn có tổ chức lễ vui qui cho con gái thứ... có thỉnh mời ông bà nội, ông bà ngoại ông bà cô bác lối xóm, đã không quản ngại đường xá xa xôi, nhính chúc ít thì giờ quý báu đến đây dự lễ vu quy hôm nay thêm phần long trọng và vị trưởng tộc xem đồng hồ và nói tiếp, bây giờ là 21 giờ đã đến giờ lại xuất giá.
+ Trước tiên là lại ông bà quá vảng tức là (cửu quyền)
+ Tiếp theo là lễ ông bà hiện tiền, ông bà nội, ông bà ngoại, ông bà thân tộc lối xóm.
+ Lễ bái phụ mẫu dâng rượu cho cha mẹ uống vui ngày con vu quy xuất giá, lần lượt đến lễ cô bác, bác suôi, chú thím, cậu mợ, dì dượng, anh chị em và bè bạn, nhận quà tặng của ông bà cha mẹ, anh chị bạn bè thân thích. Ngày xưa có cô dâu phụ đi theo, ngày nay không còn áp dụng cô dâu phụ như ngày xưa.
Phần cuối ông trường tộc nhắc lại lời của nữ chủ hôn mời ông bà cô bác, anh chị em đi đưa dâu thì vui lòng chấp nhận, ăn mặc chỉnh tề, đi đúng giờ.
LỄ KIẾU RỂ
Còn gọi là lễ thám tộc, ngày xưa sau khi đám nói ở tại nhà đang gái xong, đàng trai để chú rể lại ở làm lễ, cho đến ngày làm đám cưới trưởng tộc đàng trai qua trình lễ với nhà gái để rước chú rể về đó gọi là lễ kiếu rể.
Lễ thám tộc: Từ xa xưa cứ đến ngày mai rước dâu thì chiều hôm trước họ đàng trai sẽ cử người đi thám tộc, để dò xem coi họ đàng gái có thực hiện lời giao ước ấy hay không.
LỄ RƯỚC DÂU
Họ nhà trai chuẩn bị đi đến họ nhà gái theo tục lệ, có một vị trưởng tộc và một chú rể bưng khay trầu có đôi đèn, chú rể phụ bưng khay việc cùng ông bà cha mẹ bên nam đi chẳn đôi, ông bà, cha mẹ, nam nữ bốn hoặc sáu, để đủ người bưng mâm bàn (chứ không đi lẻ) cùng đai diện có hai khay.
1. Khay trầu có đôi đèn
2. Khay việc có chung, nhạo để rót rượu trình lễ
- Kiểm tra lại mỗi khai có bốn miếng trầu têm và bốn miếng cau tươi có hai cái chung nhạo cho mỗi khay đều có rượu.
- Kiểm tra mâm trầu có buồn cau dầy, hay cau tầm vung còn nguyên vẹn trong thật đẹp mắt, cùng một ốp trầu bọc giấy đỏ cho hai chai rượu bịch nút đỏ, mà ngày xưa người ta gọi là mâm trầu, ché rượu, kiểm tra bốn mâm quà coi đủ chưa, khi đi rước dâu gần đến nhà đàng gái, họ đàng trai phải dừng lại sửa soạn y phục và mâm bàn cho tử tế.
Cử trưởng tộc và chú rể phụ bưng khay tiệc đi trước vào trình lễ.
1. Lễ y kỳ
Trưởng tộc nhà trai xin phép trưởng tộc nhà gái cho nhập gia trình lễ cưới (hoặc lễ rước dâu), khi được đại diện bên gái nhận lời, trưởng tộc bên gái bưng khay trầu thỉnh họ nhà trai, ngày nay cử đại diện ra mời họ nhà trai, họ nhà trai lần lượt đi vào, vị trưởng tộc rót rượu trình lễ, vị trưởng tộc nói hôm nay vào lúc ngày........... tháng... năm..., được ngày "hoàng đạo" họ đàng trai được phép nghinh hôn trình sính lễ cưới.
Hoặc là trưởng tộc nói một cách khác, hôm nay được sự đồng ý của đôi bên hai họ và sự cho phép của chính quyền địa phương, họ đang trai đến trình lễ cưới gồm có 01 đôi đèn, 02 mâm trầu, 04 mâm quà.
2. Chú rể phụ rót rượu, ông trưởng tộc trình lễ khai quà để kiến gia tiên.
- Ông trưởng tộc trình lễ cho đồ nữ trang và trang phục cô dâu nếu có
- Ông trưởng tộc trình lễ nhập hộp (còn gọi là lễ hiệp song) xin phép cho chú rể đeo đồ cho cô dâu là để cho chú rể nhìn mặt coi có phải là vợ của mình hay không, như ngày xưa có sự tảo hôn, (coi người em, mà gã người chị).
3. Ông trưởng tộc trình lễ thượng đẳng bái đường (tức lại ông bà quá cố) hai đứa lại và bái tộc lễ đã lập song, ông trưởng tộc nhà trai giao khai việc lại cho ông trưởng tộc nhà gái, giới thiệu ông bà thân tộc bên nhà gái, khi giới thiệu song, ông trưởng tộc nhà gái giao khai việc lại cho ông trưởng tộc nhà trai.
4. Chú rể phụ rót rượu ông trưởng tộc trình lễ dỡ mâm trầu.
- Ngày xưa thi ba ngày mới dỡ mâm trầu, ngày nay dỡ luôn trong buổi lễ, ông trưởng tộc khai thông, cháu trai bẻ cao, cháu gái lấy trầu cau cũng đủ đôi và trầu cũng đủ đôi, để trong cái dĩa xá hai xá rồi đặt lên bàn thờ.
- Lễ trao hoa (nếu có)
5. Chú rể phụ rót rượu, ông trưởng tộc trình lễ rước dâu và thỉnh họ nhà gái, đưa dâu qua nhà trai.
- Chú rể phụ rót rượu, ông trưởng tộc nhà trai trịnh trọng xin phép trình lễ kiếu.
6. Lễ phản bái rước dâu sau 3 ngày, bên đàng trai cùng cô dâu chú rể đem theo một cặp vịt qua nhà đang gái, làm cúng cho ông bà, gọi là lễ phản bái, có khi họ nhà trai xin phép họ nhà gái cho miếng lễ phản bái, vì bận công việc hoặc đường xá xa xôi.
LỄ RƯỚC DÂU VỀ TỚI NHÀ TRAI.
Họ nhà trai đề bản "lễ tân hôn"
Ngày xưa khi rước dâu về cô dâu chú rể đến làm lễ tơ hồng, có lập bàn thờ tơ hồng được đặt ngang bên trước nhà tiệt, có đèn hoa rực rỡ, cô dâu chú rể đến bái tơ hồng, còn ngày nay ít ai thực hiện lễ này, ông trưởng tộc đại diện nhà trai sắp xếp chỗ ngồi cho bên nam và bên nữ, chú rể phụ rót rượu ông trưởng tộc tuyên bố. Hôm nay ngày... tháng... năm được ngày hoàng đạo chọn được ngày lành tháng tốt, nam chủ hôn có làm lễ thành hôn cho con trai thứ có thỉnh họ nhà gái, cùng ông bà thân tộc hai bên nội, ngoại cùng ông bà cô bác và bà con lối xóm đã không quảng ngại đường xá xa xôi, nhìn chúc ít thì giờ quý báo để tham dự lễ thành hôn thêm phần long trọng.
Đã đến giờ làm lễ, trước tiên:
1. Lễ ông bà quá vảng - chú rể cô dâu cùng lễ bàn thờ
2. Bái tộc lại họ, xá hai bên hai họ, rót rượu lễ ông bà hiện tiền như ông bà nội, ông bà ngoại, ông bà bà con lối xóm mời nâng ly uống rượu cho hai cháu làm lễ.
3. Lễ bái song thân, cô dâu cú rể dâng rượu cho cha mẹ uống gọi là quang hỉ nâng ly mừng ngày vui con có đôi bạn.
4. Lễ bái cô bác, bác suôi, chú thím, cậu mợ, dì dượng uống rượu cho cháu làm lễ.
5. Lễ anh em, bạn bè quang khách chúc mừng quà tặng, đến khi kết thúc trưởng tộc sẽ tuyên bố kết thúc cuộc lễ hôm nay.
6. Mời đàng gái dự yến tiệc do đàng trai long trọng chiêu đãi.
- Khi họ đàng gái kiếu lui gót, họ đàng trai cùng cô dâu chú rể ra tiễn họ đàng gái ra về.
- Trên đây là phần nghi lễ cưới hỏi ngày nay có sự cải tiến hơn ngày xưa nhiều.
Từ xưa đến nay đã trải qua các chế độ xã hội, từ đầu thế kỷ XV cho đến hết thế kỷ XX nghi lễ cưới hỏi là vấn đề đặc biệt quan trọng trong mọi gia đình dân tộc Việt Nam chúng ta, qua nghiên cứu vân chưa có sổ sách nào ghi lại các chi tiết, song nó vẫn tồn tại trong dân gian, như một thư văn sử truyền miệng, như là một thứ văn học nghệ thuật nó ăn sâu vào lòng con người. Vì vậy mà nó còn được bổ sung chọn lọc phổ biến trong điều kiện tiến hoá của xã hội, phát triển qua truyền miệng rĩ tai, hay cha truyền con nối, người này qua người kia, đời này qua đời khác, về đạo đức lễ giáo trong các gia đình họ tộc mẫu mực nhân đạo hiền lành.
Tuy đơn sơ mà rất quan trọng, nó mang tính đạo đức và luôn luôn tồn tại bền vững trong cuộc sống con người, nó không mang tính pháp luật, mà nó trừu tượng trong lòng con người quan trọng gần như pháp luật trong cuộc sống từ trước đến nay.
Có nơi này nơi khác tuy không đồng nhất, nhưng nghi lễ luôn được coi trọng còn gắn bó với truyền thống, đạo đức nó là một sự tích đặc biệt quan trọng đã có từ lâu đời, theo nghi lễ cưới hỏi nó rất đa dạng cả hình thức lẫn nội dung phong phú.
Về hình thức: Được trang trí nhà tiệc, treo đèn kết hoa bằng tàu lá đũng đỉnh, tàu lá dừa, tàu lá dừa nước, hoa cau, ngày nay họ kết bằng hoa giấy hoa đèn rực rỡ màu sắc.
Cô dâu chú rể trong ngày cưới, ngoài hai vị trưởng tộc suôi trai, suôi gái, từng vùng, từng nơi không đồng nhất, vẫn còn nơi này, nơi khác nhưng từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 nghi lễ cưới hỏi theo sự tiến bộ của xã hội.
Hôn lễ xưa nay đã trãi qua nhiều chế độ xã hội, trong dân gian họ không có tiền hôn giá thú, vậy mà nghi lễ được hai bên đính ước rồi thì họ gắn bó với nhau coi như là "thiên duyên tiền định" dù cho vật đổi sao vời họ vẫn thuỷ chung như nhất cho đến ngày răng long tóc bạc, đôi hôn nhân trai tày gái sắc ấy họ yêu nhau tự nguyện ràng buộc bằng quan hệ tình yêu, duyên kiếp của lứa đôi.
Sự khác biệt trong phong tục cưới ba miền
Thời xưa, trong đời người từ lúc sinh ra đến lúc mất đi đều trải qua nhiều buổi lễ quan trọng. Nghi lễ ở các vùng miền khác nhau sẽ diễn ra theo hình thức lẫn nội dung khác nhau. Ngày nay, trong thời đại mở cửa, người Việt cũng bị cuốn vào lối sống công nghiệp nên tựu trung lại chỉ còn ba lễ quan trọng vẫn được bảo tồn đó là hôn – tức lễ cưới, tang – tức lễ ma chay, tế - tức lễ tế tự ở đền miếu. Nếu lúc trước còn có lễ Gia Quan tức là đội khăn cho người con trai được 20 tuổi (ta) để chứng tỏ người đó trưởng thành, có thể làm trụ cột cho gia đình thì ngày nay, hôn lễ dường như gánh luôn phần ý nghĩa cho lễ Gia Quan. Xét trong ba miền, nghi thức, phong tục cưới có nhiều đổi khác khi đi từ Bắc vào Nam.
Tục cưới miền Bắc
Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác quy định nghiêm ngặt hơn. Ít nhất phải giữ 3 lễ Chạm ngõ, Lễ hỏi và Rước dâu.
Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ở Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cần thiết, để giữa hai gia đình, "chỗ người lớn" thưa chuyện với nhau. Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể thiếu được cơi trầu.
Mâm quả của người miền Bắc khá cầu kỳ. Ảnh: Nupakachi
Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá... Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh "su sê", ngày xưa gọi là bánh "phu thê", một số địa phương gọi chệch ra là bánh "su sê" là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Ngày giờ tốt cho lễ hỏi phải được chọn kỹ lưỡng, các tráp ăn hỏi cũng phải chuẩn bị đầy đủ, phải là số lẻ và lễ ăn hỏi phải diễn ra trước đám cưới ít nhất một tuần tới 10 ngày.
Lễ rước dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, đầu làng hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ XX vẫn còn), muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong ngày cưới). Trong khi đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên.
Lễ cưới miền Trung
Người miền Trung, mà cụ thể là tại cố đô Huế có tục cưới xin đơn giản, tiết kiệm, trọng lễ nghi, không trọng tiền bạc. Người Huế cũng có các bước như dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu nhưng ý nghĩa có khác đôi chút so với miền Bắc. Chuẩn bị lễ hỏi, lễ cưới, người Huế thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau khi chọn ngày giờ, hai bên thông gia sẽ báo cho nhau bằng một cuộc thăm đơn giản.
Ðám cưới Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, và đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo; không có "lợn quay đi lộng" như nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ thường là 1 trai 1 gái, tuổi tương đương cầm lồng đèn hay cầm hoa. Trong đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi bạn trẻ phải nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái sẽ không theo xe, mà hôm sau mới sang nhà trai, với ý nghĩa xem cô con gái ngày đầu về làm dâu có làm điều gì phật lòng nhà chồng không. Buổi gặp này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái cho nhau, và căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình bên vợ hoặc bên chồng.
Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Ảnh minh họa: QT
Ðặc biệt, quan hệ tuổi mạng rất được coi trọng ở đám cưới Huế. Theo TS Tôn Thất Bình: vị chủ hôn thường là vị cao niên trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Những nhân vật khác trong đám cưới từ người may áo cưới, người sắp xếp phòng cho đêm tân hôn, người đóng vai trò tổ chức đều được lựa chọn kỹ càng. Những người này đều phải có gia đình hòa thuận, con cái đề huề.
Đám cưới miền Nam
Người dân phía Nam thường có lối suy nghĩ phóng khoáng, vì thế phong tục cưới hỏi của họ cũng có phần thoải mái, giảm nhẹ hơn. Lễ cưới tại miền Nam vẫn có đủ 3 nghi thức là dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu. Nhưng không như miền Bắc, người miền Nam có thể bỏ qua lễ dạm ngõ mà tiến hành lễ ăn hỏi và đón dâu cùng một ngày.
Tuy nhiên, có một nghi lễ bắt buộc cần có trong đám cưới miền Nam, đó là lễ lên đèn. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên, trong nhà, trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ "hương đăng hoa quả". Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật đưa đến, ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau. Đại diện nhà trai đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. Hai bên bàn bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì giờ vì đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của đàng gái tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn"
Phong tục cưới hỏi của miền Nam có phần thoải mái, giảm nhẹ hơn.
Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất. Hai ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà. Người trưởng tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do đàng trai đem đến. Rồi thì ông đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Hai ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa). Hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang áp vào hai tay, như khấn vái. Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao cho hai người trợ lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn hiếp chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỹ, sợ gió tạt hoặc tạm thời tắt quạt máy. Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất, không làm bằng sáp ong như xưa nên dễ tắt bất ngờ.
“Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi.” – dẫn theo nhà Nam bộ học Sơn Nam.
Phong tục tập quán ba miền Bắc Trung Nam trong cưới xin
Phong tục hôn nhân của người Việt
Phong tục tập quán trong ngày Tết Nguyên Đán cổ
Văn hóa truyền thống của Nhật Bản
Các bước chuẩn bị cho đám cưới bạn cần biết
Phong tục cưới hỏi của người Chăm
(st)