Bệnh nấm móng tay.
Tôi năm nay 45 tuổi, công việc thường xuyên tiếp xúc với nước, khoảng 1 - 2 tháng nay móng tay cái bị sần sùi lên, có màu đen, không có cảm giác đau, nhưng hơi ngứa. Tôi thường lấy củ hành (hành khô) nướng lên rồi đắp vào móng tay 1 lát thì đỡ. Nhưng mấy hôm nay tôi lại thấy ngón trỏ có triệu chứng giống ngón cái. B/s có thể cho tôi hỏi đó là bệnh gì? Xin cảm ơn Bác sĩ! (Nguyễn Khánh Hồng)
Trả lời:
Theo như mô tả, có thể bạn bị nấm móng tay.
Nguyên nhân: Do nhiều loại vi nấm gây ra, có thể kể hai nhóm chính là: Nấm sợi tơ (Dermatophytes) và nấm hạt men (Candida). Người bị bệnh này, do tay chân thường xuyên bị ướt tạo điều kiện cho vi nấm phát triển và gây bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Bề mặt móng bị xù xì, phủ một lớp vảy mịn như cám, có lằn sọc dọc hay ngang. Chỗ bị tổn thương có màu hơi vàng, hay nâu đen. Bên dưới móng cũng có thể bị tổn thương và móng bị tróc. Ít khi cả mười móng tay hoặc mười móng chân đều bị bệnh. Trên từng móng, tổn thương tấn công từ bờ vào và không bị viêm quanh móng (nếu do Dermatophytes) hoặc từ gốc móng đi ra và có viêm quanh móng (nếu do nấm Candida).
Khi viêm quanh móng sẽ rất đau, sưng đỏ và có mủ.
Ðiều trị:
+ Thuốc bôi tại chỗ: Dùng một trong các thuốc bôi sau: kem hoặc pommade Ketoconazol (Nizoral), Canesten, Trosyd, Exoderil, Naftin v.v...
Cách bôi: Sau khi rửa và cạo sạch chỗ tổn thương móng, bôi thuốc lên bề mặt móng và quanh móng, mỗi ngày 2-3 lần, ít nhất trong 3 tháng.
+ Thuốc uống: Có thể dùng: Griséofulvine (chỉ có tác dụng trên nấm sợi tơ), Nizoral, Lamisil,... (có tác dụng trên cả hai loại nấm). Nhưng phải có sự chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ.
Ðể phòng ngừa tái phát, nếu có thể nên thay đổi việc làm hoặc mang bao tay khi làm việc để tránh móng bị ướt.
Tóm lại, nấm móng là một bệnh tuy không nguy hiểm nhưng làm mất vệ sinh, thẩm mỹ và rất khó điều trị. Vì vậy cần phải điều trị sớm và đúng phương pháp.
Theo chúng tôi, bạn cần đến khoa Da liễu, bệnh viện tỉnh khám, các bác sĩ ở đó sẽ khám, cho làm xét nghiệm để xác định bạn bị loại nấm gì ở móng tay rồi sẽ kê đơn thuốc cho bạn điều trị.
Nấm móng chân (tay) là căn bệnh khá phổ biến vào mùa hè. Bệnh do vi khuẩn gây nên và có khả năng lây lan rất nhanh. Dưới đây là những điều cần biết về căn bệnh nguy hiểm này.
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh nấm móng chân (tay) do nấm và vi khuẩn gây nên. Bệnh gây ra các tổn thương ở vùng da có nhiều chất sừng. Bệnh đặc biệt hay xuất hiện ở vùng móng chân, móng tay, đôi khi cả ở tóc. Bệnh do nấm và vi khuẩn gây ra nên có khả năng lây lan rất nhanh.
Thời tiết nóng ẩm mùa hè là điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện, sinh sôi và phát triển của bệnh. Có thể kể đến một số nguyên nhân gây bệnh chủ yếu sau:
- Vệ sinh cơ thể không sạch sẽ, đặc biệt là vùng móng chân, móng tay.
- Thường xuyên có các chấn thương nhẹ ở vùng móng chân (tay)
- Dùng găng tay, tất và giày kín trong thời gian quá dài.
- Thường xuyên có các hoạt động ở nơi công cộng như: bể bơi, phòng tập thể thao…
- Gia đình có người bị mắc bệnh.
- Dùng chung đồ dùng cá nhân với người bị bệnh.
2. Biểu hiện của bệnh
Bệnh thể hiện rõ nhất ở sự biến đổi màu sắc cũng như cấu tạo của vùng móng chân (tay). Khi bị nhiễm bệnh, móng chân (tay) thường xuất hiện các khe nứt li ti. Ở vùng kẽ móng xuất hiện hiện tượng nhiễm trùng da. Da có thể mẩn đỏ kèm theo là cảm giác ngứa ngáy và khó chịu. Móng có màu vàng hoặc xám đục. Lớp tế bào sừng trên bề mặt móng trở nên dày hơn, sờ vào có cảm giác hơi sần.
Khi bệnh trở nên nặng, móng có thể chuyển sang màu xanh xám hoặc đen. Các lớp sừng giòn và bong dần, có mùi hôi và tanh đặc trưng.
4. Cách phòng ngừa
Những loại rửa và thuốc bôi dạng kem hoặc nước chỉ có tác dụng ngăn chặn và ức chế quá trình sinh sản và phát triển của vi khuẩn chứ không thể tiêu diệt hoàn toàn được chúng. Điều trị tận gốc căn bệnh này cần có thời gian và sự kiên trì.
Ngoài phương pháp dùng thuốc bôi ngoài da, nên kết hợp với các loại thuốc kháng sinh khác giúp ngăn ngừa viêm nhiễm ở những vùng móng mà thuốc bôi không tới được.
Nếu thấy có những biểu hiện mắc bệnh như trên, hãy tìm đến ngay bác sỹ để có được phương pháp chữa trị thích hợp.
Ngoài ra, cũng cần ngăn ngừa và hạn chế nguồn lây lan bệnh bằng các cách như sau:
- Vệ sinh cơ thể hàng ngày. Luôn giữ tay, chân sạch sẽ.
- Không sử dụng găng tay, tất và giầy kín trong thời gian dài. Nên sử dụng những đôi giày, dép thoáng khí. Găng tay, tất phải được làm từ sợi thiên nhiên, có khả năng thấm hút mồ hôi.
- Lựa chọn những đôi giày vừa chân, tạo cảm giác thoải mái khi đi. Tránh sử dụng những đôi giày, dép quá cao hoặc quá chật vì sẽ dễ gây các tổn thương cho chân, đặc biệt là các ngón chân.
- Hạn chế hoạt động ở các nơi công cộng vì đó là nguồn lây lan bệnh.
- Tuyệt đối không dùng chung đồ dùng như: quần áo, dày dép với những người mắc bệnh.
- Khi thấy có các biểu hiện bị bệnh, cần tìm đến ngay bác sỹ.
Bệnh
nấm móng và một cách phân loại mới định
hướng điều trị nấm móng
A. Bệnh nấm móng
1. Định nghĩa:
Là bệnh mãn tính và thường gây biến dạng móng.
Sự nhiễm nấmở móng thường không theo qui luật đồng dạng hay đối xứng và thường được thấy bị nhiễm ở một hoặc hai móng.
Nguyên nhân gây bệnh:
- Nấm dermatophyte.
- Nấm Candida.
- Nấm mốc (Seopulariopsis, Hendersonula...)
2. Các biểu hiện trên lâm sàng:
2.1. Nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng (DLSO: Distal and lateral subungual onychomycosis), là dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi cũng nhiễm thêm nấm mốc (mould) thứ phát.
2.2. Trắng trên bề mặt móng (SWO: Supperficial white onychomycosis), là dạng đặc trưng của nhiễm dermatophyte do Trichophyton mentagrophytes, thường không phổ biến.
2.3. Ở phần gốc dưới móng (PSO: Proximal subungual onychomycosis). Xuất phát từ phần gần của móng và thường là thứ phát của viêm quanh móng mãn do các chủng nấm men Candida.
2.4. Loạn dưỡng toàn móng (TDO: Total dystrophic onychomycosis), là dạng sau cùng của loạn dưỡng móng khi toàn bộ móng bị tiêu hủy do hậu quả của ba dạng nhiễm trên.
3. Các loại thuớc điều trị hiện nay:
3.1. Thuốc bôi tại chỗ: thường được sử dụng theo kinh nghiệm (dạng kem, dung dịch, sơn):
- Nhóm azole (ketoconazole, clotrimazole, miconazole, sulconazole, oxiconazole, econazole).
- Ciclopirox Olamine.
- Amorolfine (loceryl).
- Nhóm allylamine (natifine, terbinafine).
- Nhóm các acid (salicylic, undecylenic).
- Nhóm polyenes (nystatin).
Tuy nhiên, đa số những chế phẩm trên không có mấy hiệu quả trên nấm móng, ngay cả khi sử dụng phối hợp với rút móng, do hạn chế tính thấm của tá dược vào móng. Do đó, điều trị bằng đường uống hiện được lựa chọn nhiều hơn.
3.2. Thuốc uống:
- Itraconazole:
·Liên tục: 200mg/ngày, trong 6 – 12 tuần
·Điều trị từng đợt: 400mg/ngày, trong tuần đầu/tháng trong vòng 2 – 3 tháng.
- Terbinafine: 250mg/ngày (6 – 12 tuần).
- Fluconazole: 150 – 400mg mỗi tuần, từ 6 – 12 tháng.
- Griseofulvin: 0,5 – 1g/ngày, (6 – 12 tháng).
B. Cách phân loại mới định huớng điều trị nấm móng
1. Tác giả:
BS. Alexey Sergeev - Tổng Thư ký của Hội Vi nấm học - Học viên Quốc gia Nga.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị:
2.1. Biểu hiện lâm sàng của tổn thương:
Bệnh nấm móng có thể có các biểu hiện rất khác nhau. Dạng nhiễm lúc đầu thường nhẹ, ảnh hưởng ít đến nền móng, có thể điều trị tại chỗ dễ dàng. Các dạng lan rộng hơn, thường đòi hỏi trị liệu thuốc uống mới cho hiệu quả và duy trì được kết quả. Có vài trường hợp, đôi khi trị liệu đơn độc đường uống cũng không đủ hiệu quả.
2.2. Độ rộng của tổn thương:
- Vị trí nhiễm nấm cách mầm móng (matrix) bao xa?
- Thời gian để tổn thương đi ra khỏi móng?
2.3. Mức độ dày sừng bên dưới móng:
- Thuốc bôi có đến được giường móng (nail bed) không?
- Thuốc kháng nấm uống có đến được bản móng(nail plate) không?
2.4. Vị trí móng bị nấm:
Tốc độ phát triển của móng khác nhau cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Các móng chân thường phát triển chậm hơn các móng tay. Móng tay cái và chân cái phát triển chậm hơn móng các ngón còn lại. Sự phát triển của móng chậm hơn sẽ đòi hỏi thời gian điều trị dài hơn.
2.5. Tuổi:
Tốc độ phát triển của móng giảm theo tuổi.
Phòng và điều trị nấm móng tay, chân
Môi trường nóng, ẩm là môi trường thuận lợi để các loại nấm phát triển và gây bệnh. Nấm móng tay, móng chân là bệnh thường điều trị và phòng bệnh ra sao?1. Nấm móng: Là bệnh mãn tính và thường gây biến dạng móng. Sự nhiễm nấm ở móng thường không theo qui luật đồng dạng hay đối xứng và thường được thấy bị nhiễm ở một hoặc hai móng. Nấm móng là sự phá hủy móng tay, chân (nhưng hiếm khi tất cả) do nhiễm nấm gây nên.
Móng chân hay bị hơn bởi vì mang giầy chật làm cho móng ẩm ướt và đây là môi trường thuận lợi cho nấm phát triển. Ngược lại, ở người làm nghề mà tay tiếp xúc thường xuyên với nước như bán nước giải khát,công nhân hải sản, nội trợ …thì móng tay hay bị hơn.
Bệnh nấm móng thường khó điều trị, đòi hỏi thời gian điều trị dài 12-18 tháng và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay dễ điều trị hơn nấm móng chân. Các thuốc điều trị nấm móng có nhiều tác dụng phụ, vì vậy phải được bác sĩ chuyên khoa da liễu khám, chỉ định và theo dõi điều trị. Thậm chí khi đã điều trị hết nấm móng, bệnh vẫn có thể tái phát ngay sau khi ngừng thuốc chống nấm toàn thân một thời gian ngắn. Do vậy thuốc bôi chống nấm có thể dùng duy trì sau khi đã dùng thuốc chống nấm toàn thân.
2. Nguyên nhân
- Nấm mốc (Seopulariopsis, Hendersonula...)
- Do nấm hạt men (Candida albicans): tổn thương là những biến dạng
trên bề mặt của móng, bề mặt trở nên sần sùi, gồ ghề mất đi vẽ trơn láng
bình thường, có thể có nhiều chất bẩn đóng phủ lên. Một đặc điểm quan
trọng là tổn thương từ phía trong mầm móng tiến ra ngoài bờ tự do và
quanh móng cũng bị sưng đỏ, có mủ, bóp rất đau.
- Do nấm sợi tơ (Dermatophytes): thương tổn trên bề mặt của móng cũng
giống như do nấm hạt men nhưng bắt đầu từ bờ tự do và tiến vào phía
trong mầm móng và thường là không có viêm quanh móng.
3. Cách lây truyền
Nấm móng thường xuất hiện trên những móng đã bị chấn thương
trước đó. Những chấn thương thường là: vi chấn thương ở móng, mang giầy
chật.
Có thể lây từ người này qua người khác bởi vì nấm có thể sống được
trong không khí ẩm, đất nên người đi chân đất dễ bị. Nhiễm nấm cũng có
thể xảy ra trong buồng tắm, bồn tắm, phòng thay đồ hoặc khi làm móng,
cắt móng chung với người bị nấm móng.
Nấm móng là một bệnh thường thấy ở những người làm việc
tiếp xúc với nước thường xuyên như: nội trợ, chùi rửa hồ bơi, phục vụ
phòng khách sạn, người làm nghề bán nước giải khát, rửa xe, chăn nuôi
,bán tôm cá... Những người ra mồ hôi nhiều khi làm việc hoặc chơi thể
thao. Người có tiền căn nấm tay chân, nấm bẹn, làm móng tay, móng chân,
người > 65 tuổi, Bệnh nội khoa, thiếu máu nuôi tay chân, tiểu
đường, suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS)
4. Các biểu hiện trên lâm sàng:
Nấm móng thường không có triệu chứng gì đặc biệt mà chủ yếu là móng bị mất độ bóng, giòn và quá sâu. Chất móng có thể khô và thậm chí xốp. Những mảnh vụn không đều của móng bị bệnh có thể vỡ. Ðể chẩn đoán xác định cần kiểm tra dưới kính hiển vi để xem có những nhánh sợi nấm và đám bào tử nấm không. Bệnh làm móng bị hư hủy xấu xí, có khi nung mủ, đau ảnh hưởng đến năng suất làm việc. Một đặc điểm dễ nhận ra bệnh là trên một bàn tay, chân tổn thương không luôn luôn xảy ra trên tất cả các móng. Thường có các triệu chưng sau:
- Móng bị nhiễm nấm sẽ có các dấu hiệu sau:
-Móng màu nâu, vàng hoặc có những đốm trắng, có thể có màu đen
-Móng trở nên giòn, dễ gãy, dễ bong, lỗ chỗ
-Tăng sừng dưới móng
-Mùi hôi
-Móng dầy và mang giầy đau
-Khó chịu, gây khó khăn khi đi lại, làm việc
- Bề mặt móng bị xù xì, phủ một lớp vảy mịn như cám, có lằn sọc dọc hay ngang. Chỗ bị tổn thương có màu hơi vàng, hay nâu đen.
- Bên dưới móng cũng có thể bị tổn thương và móng bị tróc.
- ít khi cả mười móng tay hoặc mười móng chân đều bị bệnh. Trên từng móng, tổn thương tấn công từ bờ vào và không bị viêm quanh móng (nếu do Dermatophytes) hoặc từ gốc móng đi ra và có viêm quanh móng (nếu do nấm Candida).
- Khi viêm quanh móng sẽ rất đau, sưng đỏ và có mủ
Nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng (DLSO: Distal and lateral subungual onychomycosis), là dạng phổ biến nhất gây loạn dưỡng móng, thường do vi nấm dermatophyte, đôi khi cũng nhiễm thêm nấm mốc (mould) thứ phát.Trắng trên bề mặt móng (SWO: Supperficial white onychomycosis), là dạng đặc trưng của nhiễm dermatophyte do Trichophyton mentagrophytes, thường không phổ biến. Ở phần gốc dưới móng (PSO: Proximal subungual onychomycosis). Xuất phát từ phần gần của móng và thường là thứ phát của viêm quanh móng mãn do các chủng nấm men Candida. Loạn dưỡng toàn móng (TDO: Total dystrophic onychomycosis), là dạng sau cùng của loạn dưỡng móng khi toàn bộ móng bị tiêu hủy do hậu quả của ba dạng nhiễm trên.
5. Thời gian điều trị
Thường phải kéo dài ít nhất từ 3- 6 tháng, có trường hợp đến 12 tháng, là thời gian cần để thay trọn vẹn móng mới. Nấm móng là một bệnh tuy không nguy hiểm nhưng làm mất vệ sinh, thẩm mỹ và rất khó điều trị. Vì vậy cần phải điều trị sớm và đúng phương pháp.
6. Dự phòng nhiễm nấm
- Giữ bàn tay, bàn chân luôn luôn khô ráo, sạch sẽ bằng cách đeo găng tay cao su khi tiếp xúc với nước. Tránh ngâm tay chân trong thời gian dài dưới nước. Sau khi làm việc trong môi trường nước, cần rửa sạch, lau khô bàn tay, bàn chân ngay
- Không dùng khăn ướt, không dùng chung khăn với người khác.
- Thay tất, vớ mỗi ngày. Không nên mang tất, vớ từ ngày này qua ngày khác. Nên chọn những đôi tất có chất liệu thoáng và dễ hút ẩm. Mồ hôi bàn chân chính là điều kiện thuận lợi giúp cho các loại vi khuẩn và nấm sinh sôi nảy nở.
- Luôn cắt tỉa móng tay,móng chân cẩn thận, đều đặn, theo dáng các ngón tay-ngón chân, không nên để quá dài. Không nên dùng chung các dụng cụ cắt tỉa móng tay-chân, hạn chế cắt, tỉa, sơn hay ngâm móng chân ở tiệm.
-Thường xuyên rửa bàn tay, bàn chân cẩn thận và lau khô ngay sau khi rửa. Tránh tiếp xúc nhiều với các loại xà phòng, hóa chất.
- Điều trị càng sớm càng tốt.
- Nếu bệnh cứ kéo dài dai dẳng dù đã được điều trị thì nên thay đổi công việc khác nếu có điều kiện.