Hội chứng Reye là gì? Nguyên nhân gây nên hội chứng
Reye. Biểu hiện của hội chứng Reye như thế nào. Phòng ngừa và chữa trị hội
chứng Reye.
Hội chứng Reye
Hội chứng Reye là bệnh lý não - gan hiếm gặp, chủ yếu xuất hiện ở trẻ em với đặc điểm là tình trạng phù não và suy gan tiến triển nhanh chóng. Các tế bào thần kinh bị thoái hóa, gan sưng to và chứa đầy các không bào chứa mỡ. Bệnh thường xuất hiện sau khi mắc một số bệnh như cúm, thủy đậu nên người ta cho rằng bệnh là biến chứng nặng và hiếm gặp gây ra bởi các virus này. Người ta cũng cho rằng aspirin dùng để điều trị bệnh cúm hay thủy đậu cho bệnh nhân dưới 19 tuổi có thể dẫn đến hội chứng Reye. Vì vậy với những bệnh nhân trẻ mắc các bệnh trên hoặc không dùng thuốc hoặc dùng acetaminophen để điều trị bệnh thay cho dùng aspirin.
Chức năng của ty lạp thể tế bào bị rối loạn do sự tăng nồng độ các nội độc tố trong huyết thanh và tăng nồng độ TNF – α ở những bệnh nhân cấp tính là yếu tố chủ yếu gây ra hội chứng Reye. Người ta đã tìm thấy những những bất thường trong vi cấu trúc của ty lạp thể và sự thiếu hụt hoạt tính enzim xúc tác trong chu trình ure ở những bệnh nhân này.
Aspirin là loại thuốc có mặt chủ yếu ở nhiều tủ thuốc gia đình. Nhưng nếu bạn có trẻ con, loại thuốc thông dụng này có thể trở nên nguy hiểm. Aspirin có mối liên hệ với hội chứng Reye, một tình trạng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến trẻ em và thanh thiếu niên đang trong giai đoạn hồi phục sau nhiễm virus.
Hội chứng Reye được đặc trưng bởi sự phù nề ở gan và não. Nếu được chẩn đoán sớm sẽ có thể cứu được mạng sống của trẻ.
Hội chứng Reye xảy ra nhiều nhất vào những năm 1970 và những năm đầu 1980. Ngày nay, hầu hết trẻ em và thanh thiếu niên được khám kiểm tra về hội chứng Reye đều cho thấy là không bị bệnh này. Tuy nhiên, phòng ngừa vẫn luôn là điều quan trọng. Điều cơ bản cần phải nhớ là: Không cho bất kỳ trẻ nào bằng hoặc dưới 18 tuổi uống aspirin trừ phi có sự chỉ định đặc biệt của bác sĩ nhi khoa.
TRIỆU CHỨNG
Trong hội chứng Reye, đường huyết của trẻ thường hạ trong khi độ amoniac và acid máu lại tăng. Trong cùng thời điểm đó, gan bắt đầu sưng và tích tụ mỡ. Não cũng có thể bị sưng gây tai biến, lú lẫn hoặc mất ý thức.
Những dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng Reye thường xuất hiện sau khi nhiễm các loại virus như cúm hoặc thủy đậu hoặc nhiễm trùng đường hô hấp trên khoảng 1 tuần. Đối với trẻ dưới 2 tuổi, dấu hiệu đầu tiên có thể gặp là tiêu chảy, thở nhanh. Đối với những trẻ lớn hơn và thanh thiếu niên, những dấu hiệu sớm của hội chứng Reye có thể bao gồm:
- Nôn ói liên tục hoặc kéo dài.
- Buồn ngủ hoặc lơ mơ một cách bất thường.
Khi bệnh tiến triển, các dấu hiệu và triệu chứng có thể nặng hơn:
- Hành vi dễ kích động, hung hăng hoặc vô lý.
- Động kinh
- Yếu hoặc liệt tay và chân
- Tai biến
- Mất ý thức
Những trẻ bị các triệu chứng trên cần phải được đưa đến cấp cứu.
NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân chính xác gây hội chứng Reye vẫn chưa được biết đến. Hội chứng Reye có vẻ như xuất hiện sau khi dùng aspirin để điều trị nhiễm siêu vi hoặc nhiễm trùng - đặc biệt là nhiễm influenza và thủy đậu - ở trẻ em và thiếu niên. Ở một số trường hợp, hội chứng Reye có thể là biểu hiện của một tình trạng chuyển hóa được phơi bày do nhiễm siêu vi. Tiếp xúc với một số chất độc như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, và chất pha loãng màu - cũng có thể dẫn đến hội chứng Reye.
KHI NÀO CẦN ĐI KHÁM
Chẩn đoán và điều trị sớm hội chứng Reye có thể giữ được mạng sống của trẻ. Nếu bạn nghi ngờ trẻ bị hôi chứng Reye, điều quan trọng là cần phải hành động nhanh chóng. Liên lạc với bác sĩ nhi khoa ngay nếu như trẻ buồn ngủ hoặc lơ mơ bất thường hoặc có những thay đổi hành vi đột ngột sau khi bị cảm cúm hoặc trong cơn cảm hoặc bệnh thủy đậu. Hãy đưa trẻ đến phòng cấu cứu nếu trẻ bị động kinh hoặc mất ý thức.
KHÁM VÀ CHẨN ĐOÁN
Không có những xét nghiệm đặc hiệu cho hội chứng Reye. Thay vào đó, quá trình tầm soát hội chứng Reye thường bắt đầu bằng xét nghiệm máu và nước tiểu. Đôi khi cần phải đòi hỏi những xét nghiệm chẩn đoán có tính xâm lấn hơn để kiểm tra những nguyên nhân gây bệnh cho gan có thể xảy ra và khảo sát những bất thường thần kinh, chẳng hạn như:
- Chọc dò tủy sống. Có thể giúp bác sĩ xác định hoặc loại trừ những bệnh khác có các dấu hiệu và triệu chứng tương tự, chẳng hạn như nhiễm trùng lớp màng bao quanh não và tủy sống (viêm màng não) hoặc viêm hay nhiễm trùng não (viêm não). Khi thực hiện. bác sĩ sẽ đâm kim qua phần lưng dưới vào khoang trống nằm dưới đầu tận cùng của tủy sống. Một mẫu nhỏ dịch não tủy sẽ được lấy ra và gửi đến phòng xét nghiệm.
- Sinh thiết gan. Có thể giúp bác sĩ xác định hoặc loại trừ những tình trạng khác có thể ảnh hưởng đến gan. Trong thực hiện, các bác sĩ sẽ đâm kim xuyên qua da ở phần bụng trên phía bên phải để đi vào gan. Một mẫu nhỏ của mô gan sẽ được lấy ra và gửi đến phòng xét nghiệm.
- Chụp cắt lớp điện toán (CT scan) và cộng hưởng từ (MRI). Chụp CT hoặc MRI đầu có thể giúp bác sĩ xác định hoặc loại trừ những nguyên nhân khác gây thay đổi hành vi hoặc làm giảm sự hoạt bát. CT scan dùng một máy X quang phức tạp nối với máy vi tính để cung cấp những hình ảnh 2 chiều chi tiết của não. MRI là cách dùng từ trường và sóng radio để tạo ra hình ảnh của não.
BIẾN CHỨNG
Hơn 80% trẻ em và thiếu niên bị hội chứng Reye vẫn còn sống mặc dù có thể sẽ bị tổn thương não vĩnh viễn ở nhiều mức độ khác nhau. Nếu không được chẩn đoán và điều trị thích hợp, hội chứng Reye có thể dẫn đến tử vong trong vòng vài ngày.
ĐIỀU TRỊ
Hội chứng Reye thường được điều trị tại bệnh viện. Một số trường hợp nặng có thể được điều trị ở đơn vị săn sóc đặc biệt (ICU - Intensive Care Unit). Các nhân viên y tế sẽ theo dõi sát huyết áp và những dấu hiệu sinh tồn khác của trẻ. Điều trị đặc hiệu có thể bao gồm:
- Truyền dịch qua tĩnh mạch. Trẻ có thể được nuôi ăn qua đường tĩnh mạch. Glucose và những dung dịch điện giải có chứa Natri, Kali và Clo cũng sẽ được đưa qua đường tĩnh mạch.
- Insulin. Có thể sử dụng một lượng nhỏ insulin để tăng chuyển hóa đường.
- Corticoid. Là những loại thuốc được dùng để làm giảm phù nề ở não.
- Thuốc lợi tiểu. Là những loại thuốc làm tăng đào thải dịch qua nước tiểu.
Nếu bị khó thở, trẻ có thể cần phải được trợ giúp bằng máy thở (ventilator).
PHÒNG NGỪA
Không dùng aspirin cho bất kỳ trẻ nào bằng hoặc dưới 18 tuổi, đặc biệt là để điều trị nhiễm siêu vi bao gồm thuốc aspirin và những loại thuốc khác có chứa aspirin.
Luôn kiểm tra nhãn thuốc trước khi cho trẻ uống, bao gồm luôn cả những thuốc bán không cần toa, những loại thảo dược hoặc sản phẩm hỗ trợ. Aspirin có thể xuất hiện ở một số nơi ít ngờ tới, chẳng hạn như Alka-Seltzer và Pepto-Bismol. Lưu ý đôi khi aspirin sẽ xuất hiện dưới một cái tên khác, chẳng hạn như:
- Acetylsalicylic acid
- Acetylsalicylate
- Salicylic acid
- Salicylate
Nếu trẻ bị cúm, thủy đậu hoặc những dạng nhiễm siêu vi khác, hãy dùng những loại thuốc khác như acetaminophen (Panadol, Tylenol v.v...), ibuprofen (Advil, Motrin, v.v...) hoặc Naproxen Sodium (Aleve) - để hạ sốt hoặc giảm đau.
Tuy nhiên, cũng có một ngoại lệ cho quy luật dùng aspirine. Những trẻ bị một số bệnh mạn tính như Kawasaki, bệnh viêm khớp dạng thấp thể thiếu niên cần phải điều trị lâu dài bởi những loại thuốc có chứa aspirin. Nếu trẻ cần phải điều trị bằng aspirine, hãy bảo đảm trẻ được tiêm vaccine đầy đủ, bao gồm 2 liều vaccine varicella (bệnh thủy đậu) và tiêm vaccine ngừa cúm hằng năm. Tránh 2 loại virus này có thể giúp ngăn ngừa hội chứng Reye.
Theo Mayo Clinic
(ST)