Bệnh ung thư tế bào đáy? Nguyên nhân, biểu hiện và cách xử lí khi bị ung thư tế bào đáy.
UNG THƯ TẾ BÀO ĐÁY
1. Đại cương.
+
Bệnh gặp ở cả hai giới nhưng ở nam thường hay bị hơn ở nữ, trên 40
tuổi. Đây là bệnh được biết từ năm 1900, nó phát triển từ lớp tế bào đáy
của thượng bì da.Vị trí thường gặp ở vùng hở của cơ thể như: mặt, mũi,
trán, thái dương, hiếm gặp ở thân mình hoặc niêm mạc. Ung thư da basal
cell (phát xuất từ lớp tế bào nền của da) xảy ra nhiều nhất, song được
cái nó ít độc hơn so với hai anh em ung thư squamous cell và melanoma
của nó.
Ung thư basal cell thường xảy ra trên mặt và lưng bàn tay,
lớn chậm và chỉ thích lan đến các cơ quan quanh nó. Rất hiếm khi nó theo
máu chuyển di đi những nơi xa. Tuy có đến 6 dạng (nodular, pigmented,
cystic, sclerosing or morpheaforum, superficial, nevoid), nhưng nó
thường có dạng nodular, hình khối tròn nổi trên mặt da, trông bóng
trong, có những tia máu đỏ đan xuyên trên mặt.
Nếu ung thư basal
cell còn nhỏ dưới 1.5 cm, dạng khối tròn, chưa từng được thầy lang nào
chữa trị tầm bậy tầm bạ, ở nơi dễ giải phẫu, mổ cắt bỏ nó đi là xong, tỉ
lệ trị tuyệt lên đến 95-99 phần trăm. Với những ung thư không thể giải
phẫu hoặc đã chuyển di đi xa, chữa bằng hóa học trị liệu (chemotherapy).
Có hai điểm xuất phát của ung thư tế bào đáy (UTTBĐ).
- Có thể xuất phát từ một tổn thương da đã có sẵn, ví dụ: từ một cục đen da dày sừng ở người già, sau đó dưới lớp sừng này xuất hiện một vết trợt loét rồi chung quanh nổi gờ lên có màu trắng đục như hạt ngọc (perle)
.- Có thể xuất hiện ngay trên da lành,
bắt đầu xuất hiện một cục màu hồng, hơi mềm dần dần phát triển rộng
thêm, ở giữa lõm, chung quanh có viền hơi óng ánh gồm những cục màu
trắng đục thường được gọi là những hạt ngọc (perles), là triệu chứng đặc
hiệu, bên ngoài thường có những tia máu nhỏ do dãn mao mạch.
Bệnh
gặp ở bất kỳ chỗ nào trên cơ thể, nhưng thường thấy nhất ở vùng đầu, mặt
khoảng 80- 89, 3%, đôi khi có ở cổ 5, 2 %, ở thân mình 3, 6%, bộ phận
sinh dục 1 %. Khi khu trú ở mặt, thường ở vùng mũi 20-23%, ở má 16-29%.
Hiếm khi khu trú ở lòng bàn tay, bàn chân. Ở niêm mạc không bao giờ xuất
hiện bệnh.
+ Bệnh tiến triển chậm.
2. Triệu chứng lâm sàng.
Thông thường xuất hiện sau một dày sừng ở người già, đến một lúc nào đó
dày sừng to lan rộng, thâm nhiễm và ở phía đáy có một vết trợt. Vết
trợt được bao phủ phía trên vừa vảy da vừa vảy tiết (squame- crufte),
dần dần xuất hiện các cục nhỏ riêng rẽ hoặc liên kết với nhau. Cục nhỏ
đó có đặc tính của hạt ngọc ung thư.
Các hình thái lâm sàng của ung thư tế bào đáy.
2.1. Ung thư tế bào đáy phẳng thành sẹo.
Là loại ung thư tế bào đáy thường gặp nhất. Thương tổn bằng hạt đậu
nhỏ, nằm sâu trong thượng bì, có thể bằng mặt da hoặc nổi cao lên, màu
trắng, mờ, bề mặt nhẵn hoặc hơi dày sừng. Các thương tổn đó rộng và lớn
dần, có một chỗ lõm ở phần trung tâm, nhiều năm sau tạo thành một mảng.
Bờ các nổi cao lên tạo thành hình vòng, về sau liên tục xuất hiện thương
tổn mới ở bờ và làm cho các thương tổn lõm xuống thành sẹo màu trắng
đục, có những dãn mạch nhỏ, hoặc có loét nông. Các chỗ loét có thể lành
sẹo trên một vùng nhưng loét lại lan rộng ra chỗ khác
2.2. Ung thư tế báo đáy loét.
Tổn thương cơ bản là loét, vị trí khu trú thường ở da mặt và da đầu với tính chất:
Bờ của loét hơi thâm nhiễm, bờ thẳng đứng và luôn luôn có gờ, xung
quanh thành vòm. Gờ được tạo bởi những hạt ngọc ung thư nhỏ. Vết loét
sâu có thể tiến triển phá huỷ nhiều ăn sâu xuống các tổ chức ở dưới, phá
huỷ mạch máu hoặc đến cả xương.
2.3. Ung thư tế bào đáy nông.
Tổn thương ở thân mình, bụng, có dạng một mảng đơn độc hoặc có khi nhiều mảng. Mảng hình tròn hoặc hình dạng không đều.
Da đỏ bong vảy hoặc dày sừng có giới hạn rõ.
2.4. Ung thư tế bào đáy nổi cao.
+ Thể xùi có nụ.
U hình tròn xùi lên hoặc các nhú xùi, đôi khi dễ chảy máu và loét.
+ Thể nổi u rõ ràng (forme nodulaire):
Thể này khu trú nhiều nhất ở mặt, có một hoặc nhiều u nổi cao, màu vàng
sáp, bề mặt bằng phẳng, bóng mỡ, đôi khi có những giãn mạch nhỏ, thường
rải rác có vết sắc tố nhỏ, mật độ chắc như sụn. Đôi khi có chỗ mềm ấn
lõm do trong u có những kén và trong kén có chứa chất dịch màu vàng nhạt
hoặc đôi khi có dịch máu.
2.5. Ung thư tế bào đáy dạng xơ cứng bì.
Ở mặt, nhất là ở má và thái dương, khởi đầu là một mảng cứng về sau tổn
thương là mảng màu sáp vàng hoặc màu trắng ngà vàng, không có giới hạn
rõ, liên tục với da lành, đôi khi bề mặt có vài giãn mạch và rải rác có
một vài vảy da ít dính.
2.6. Ung thư tế bào đáy nhiễm sắc (pigmenté).
Có nhiều hạt sắc tố trong tổ chức tế bào ung thư, sắc tố có thể nhiều
màu như tảng đá hoặc đen xẫm, hình thành vết rộng liên kết với nhau trên
gần toàn bộ da của khối u.
Các thể lâm sàng:
- Thể nốt (Nodular BCC): thường gặp ở đầu, cổ, phần trên của thân. Một
số đặc trưng: sẩn màu sáp lõm giữa, sẩn ngọc, xây xước hoặc loét, chảy
máu, vảy, bờ nổi cao, bề mặt giãn mạch.
- Thể tăng sắc tố (Pigmented
BCC): ngoài những đắc trưng như ở thể nốt, tổn thương còn tăng sắc tố
màu nâu hoặc đen, thường gặp ở những người da đen.
- Thể nang (Cystic BCC): nang trong suốt, màu xanh xám.
- Thể bề mặt (Superficial BCC): sẩn hoặc mảng có vảy, màu hồng tới màu
đỏ nâu, thường lành ở trung tâm, bờ thường mảnh. Vị trí thường ở thân
người, ít xâm lấn. Tổn thương có thể nhầm với bệnh vảy nến hoặc eczema.
Số lượng tổn thương lớn có thể do tiếp xúc với arsen.
- Thể nang nhỏ (Micronodular BCC): thường không loét, ấn kính có màu vàng-trắng, sờ chắc, bờ rõ.
- Thể xơ cứng và thâm nhiễm (Morpheaform and infiltrating BCC): sẩn
hoặc mảng xơ cứng, bờ không rõ; thường không loét, không chảy máu, không
có vảy; dễ nhầm với mô sẹo.
Cận lâm sàng
Sinh thiết da: để chẩn đoán bệnh và thể bệnh.
- Bào da (Shave biopsy): đủ để chẩn đoán trong hầu hết các trường hợp.
- Sinh thiết da bằng kim (Punch biopsy).
3. Tiến triển.
Hai đặc tính cổ điển là tiến triển chậm và không có di căn. Tuy nhiên
cũng có thương tổn tiến triển nhanh thành lan rộng, loét, trở thành phá
huỷ tổ chức mạnh. Tổn thương lan sâu xuống gây chảy máu nhiều do phá huỷ
các mạch máu lớn ở dưới da, phá huỷ và chèn ép các sợi dây thần kinh,
xuyên vào sụn và xương ở dưới, kèm theo biến chứng nhiễm khuẩn cơ hội.
4. Chẩn đoán.
- Dựa vào lâm sàng.
- Dựa vào mô bệnh học: các tế bào khối u có nguyên sinh chất rất ít,
nhân hình bầu dục hoặc hình tròn, rất kiềm, có thể có 1 -2 nhân tròn nhỏ
hoặc hơi dài, không có cầu nối, cấu trúc của khối u do tập hợp các tế
bào thành từng đám hoặc từng ổ kích thước thay đổi. Các tế bào này dày
đặc, bắt màu kiềm, giới hạn rõ, tròn hoặc không đều, thường có những nụ
ngang trong khi đó bờ của khối u có các tế bào dạng kéo dài hình trụ
giống lớp tế bào đáy của thượng bì. Chẩn đoán phân biệt:
- Keratoacanthoma
- Ung thư hắc tố
- Khô da sắc tố
- Bớt tế bào đáy
- U mềm lây
- Tăng sản tuyến bã
- Vẩy nến
5. Điều trị: Phẫu
thuật: lựa chọn phương pháp phẫu thuật dựa vào: mô bệnh học, vị trí,
kích thước của khối u, tuổi, thể lực, khả năng tài chính của bệnh nhân.
Những phương pháp thường dùng là dùng cu-rét, phẫu thuật chuẩn, phẫu
thuật Mohs, xạ trị. Áp ni-tơ lỏng được áp dụng trong một số trường hợp.
Curettage (thường kết hợp với đốt điện): áp dụng đối với những trường
hợp ung thư tế bào đáy thể nốt hoặt thể bề mặt, sau khi nạo tổn thương
bằng cu-rét người ta tiến hành đốt điện. Toàn bộ quá trình này có thể
tiến hành lại 1-2 lần. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, nhanh,
rẻ tiền hơn nhiều phương pháp khác. Nhược điểm: đây là phương pháp mù,
không kiểm soát được bờ tổn thương, để lại sẹo.
Phẫu thuật chuẩn với
bờ quy ước: phẫu thuật cắt khôi u và vùng da lành cách bờ tổn thương ít
nhất 4mm. Ưu điểm: thời gian lành tổn thương ngắn hơn, tính thẩm mỹ tố
hơn. Nhược điểm: cần nhiều thời gian hơn và đắt hơn so với dùng cu-rét,
có thể bỏ sót tổn thương.
Phẫu thuật Mohs: cắt khối u và vùng rìa
tổn thương, dùng phương phát cắt lạnh soi dưới kính hiển vi, cắt đến khi
nào không còn ổ tế bào ung thư thì thôi. Ưu điểm: cắt hết được tổn
thương, tỷ lệ chữa khỏi cao. Nhược điểm: đắt, thời gian điều trị kéo dài
- Đốt điện và nạo bằng curret: tốt cho ung thư biểu mô đáy thể u kích thước nhỏ < 6mm.
- Phẫu thuật lạnh với nitơ: áp dụng với ung thư biểu mô đáy thể bề mặt
và thể u mà bờ thương tổn xác định rõ, với ung thư biểu mô đáy có biến
chứng và ung thư biểu mô đáy điều trị không có kết quả với các phương
pháp khác. Áp lạnh (Cryotherapy): ít áp dụng trong điều trị ung thư tế bào đáy, phụ thuộc vào kinh nghiệm của người làm.
-
Phương pháp tia xạ thường áp dụng cho ung thư biểu mô đáy ở vùng da đòi
hỏi phải bảo tồn tổ chức lành xung quanh về lí do thẩm mỹ (như quanh
môi); áp dụng cho bệnh nhân mà không thể điều trị bằng các phương pháp
khác hoặc thương tổn quá lớn và phẫu thuật thất bại. áp
dụng cho những bệnh nhân không có khả năng phẫu thuật (người già, người
suy kiệt...) hoặc phẫu thuật thất bại hoặc bệnh nhân từ chối phẫu
thuật.
Interferon alfa-2b: tiêm vào tổn thương 3 lần/tuần trong 3
tuần, mỗi lần 1,5 triệu đơn vị. Đây không phải là phương pháp điều trị
chính vì giá thành đắt, tiêm nhiều lần và tác dụng phụ của thuốc. Thuốc
kích thích miễn dịch, vì vậy không sử dụng ở những người ghép tạng và
người có bệnh tự miễn.
Thuốc bôi:
Kem
5-fluorouracil 5%: sử dụng trong những ung thư nhỏ, thể bề mặt, hội
chứng nevus tế bào đáy; ngày 2 lần trong ít nhất 6 tuần. Những bệnh nhân
điều trị bằng phương pháp này cần được theo dõi vì không phải tất cả
các khối u đều đáp ứng với thuốc.
- Kem Imiquimod (Aldara) 5% điều
trị cho ung thư biểu mô đáy thể bề mặt kích thước nhỏ ở thân và các chi.
Hiệu quả điều trị là 80%. Ưu điểm của phương pháp này là ít sẹo, phương
pháp này đòi hỏi phải cân nhắc với các phương pháp phẫu thuật khác. tác dụng tốt trong thể bề mặt, đường kính không lớn hơn 2cm. Bôi 5 lần/tuần trong 6 tuần, tỷ lệ khỏi 70-90%.
Tiến triển bệnh:
- Tỷ lệ >90% bệnh nhân được điều trị khỏi, tuy nhiên bệnh cần thiết
phải được theo rõi 5 năm bởi vì rủi ro tái phát cao gặp nhiều ở ung thư
biểu mô đáy là > 40% trong vòng 5 năm sau điều trị.
- Thương tổn
ít gặp rủi ro nếu kích cỡ thương tổn < 1,5cm đường kính đối với thể u
hoặc thể tuyến, thương tổn không phải nằm trong vùng điều trị khó (
vùng H ở mặt) và trước đấy chưa được điều trị gì.
- Thể u và thể bề mặt của ung thư biểu mô đáy ít xâm lấn nhất.
- Thể thương tổn xơ cứng bờ thương tổn có nguy cơ xâm lấn nhiều nhất >30% và tỷ lệ tái phát lớn nhất.
Bằng chứng:
- Điều trị ung thư biểu mô đáy tiên phát ở mặt bằng phẫu thuật cho thấy
tỷ lệ thất bại thấp so với phương pháp điều trị bằng tia xạ trong thời
gian theo dõi 4 năm, hơn nữa kết quả về thẩm mỹ cũng cao hơn so với tia
xạ.
- Điều trị ung thư biểu mô đáy tiên phát thể bề mặt và thể u ở
đầu và cổ, cả phẫu thuật và liệu pháp lạnh đều cho kết quả tái phát
ngang nhau sau 12 tháng, nhưng kết quả về thẩm mỹ thì phẫu thuật tốt hơn
liệu pháp lạnh.
- Phương pháp tia xạ với ung thư biểu mô đáy tiên
phát ít tái phát hơn so với liệu pháp lạnh sau 1 năm. Kết quả về thẩm mỹ
thì không khác nhau giữa 2 nhóm sau 1 năm.
- Một nghiên cứu ngẫu
nhiên giai đoạn 3 so sánh imiquimod hoặc một loại kem bôi khác sử dụng 1
lần /ngày, 5-7 lần/tuần trong 6 tuần cho ung thư biểu mô đáy thể bề
mặt. Kết hợp giữa lâm sàng và giải phẫu bệnh để định giá kết quả điều
trị, cho thấy: tỷ lệ khỏi của nhóm imiquimod là 75% và nhóm kia là 73%.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng imiquimod an toàn và hiệu quả đối với
ung thư biểu mô đáy khi so sánh với một loại thuốc bôi khác.
Ung thư biểu mô tế bào đáy: Nhận biết và xử trí
Ung thư biểu mô tế bào đáy ở mi mắt thường biểu hiện dưới dạng một cục nổi gồ lên, bề mặt óng ánh và có các mạch máu nhỏ bị giãn ngoằn ngoèo hoặc như một vết loét “gặm nhấm” hình bản đồ bờ gồ cao, lõm sâu ở giữa, tồn tại dai dẳng, khó liền và có nhiều sắc tố nâu đen giống như ung thư hắc tố. Đôi khi u xuất hiện dưới dạng một vùng da bị kích thích hoặc da mi cứng như tờ bìa, da bóng hay da đổi màu thành màu trắng hay vàng giống như vết sẹo...
Ở mi mắt, ung thư biểu mô tế bào đáy là một trong hai loại ung thư mi hay gặp nhất và chủ yếu gặp ở mi dưới, ở người già hoặc trung niên.
Bệnh thường tiến triển chậm và hiếm khi lan sang các bộ phận khác của cơ thể, do đó có thể được chữa khỏi hoàn toàn nếu được phát hi���n sớm và điều trị kịp thời.
Nguyên nhân:
Tiếp xúc với tia cực tím trong ánh nắng mặt trời là yếu tố nguy cơ cao nhất gây ung thư biểu mô tế bào đáy nên những người hay làm việc ngoài trời như nông dân, ngư phủ, người làm muối, vận động viên chơi các môn thể thao ngoài trời, thợ làm đường…dễ có nguy cơ bị ung thư biểu mô tế bào đáy. Da của trẻ nhỏ mỏng mảnh nên rất nhạy cảm với ánh nắng mặt trời so với người lớn do vậy trong thời niên thiếu nếu trẻ bị phơi nắng quá nhiều sau này dễ có nguy cơ bị ung thư biểu mô tế bào đáy. Những người có làn da nâu và đen thường ít có nguy cơ bị ung thư biểu mô tế bào đáy vì hắc tố (melanin) trong da họ đã mang đến cho họ sự bảo vệ tự nhiên còn những người có làn da mịn, có chiều hướng chuyển sang đỏ hoặc xuất hiện các nốt tàn nhang khi đi nắng sẽ có nguy cơ cao nhất về bệnh này. Tia cực tím nhân tạo như đèn cực tím và tắm nắng cũng là nguyên nhân gây ung thư biểu mô tế bào đáy. Ngoài ra còn có thể có một số yếu tố khác liên quan đến như do rối loạn miễn dịch, do rối loạn di truyền trong bệnh bạch biến, hội chứng nốt ruồi loạn sản, hội chứng khô da sắc tố hoặc do các hóa chất như thạch tín, muội than, xăng…
Điều trị:
Ung thư biểu mô tế bào đáy ở mi mắt được đánh giá là một trong những loại ung thư có khả năng được chữa khỏi cao, tiên lượng tốt. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật; có thể kết hợp với xạ trị bổ xung trong trường hợp u xâm lấn rộng. Phẫu thuật thường áp dụng nhất là cắt rộng- tạo hình, nghĩa là bao gồm việc cắt đủ rộng u kèm một phần mô lành xung quanh để tránh tái phát; sau đó các bác sĩ sẽ dùng các kỹ thuật mổ tạo hình thích hợp để tái tạo lại phần đã cắt bỏ, nhằm đảm bảo về chức năng mi mắt và thẩm mỹ cho bệnh nhân.
Phòng bệnh:
Để hạn chế, phòng tránh một phần nguy cơ bị ung thư da nói chung trong đó có ung thư biểu mô tế bào đáy ở mi mắt, cần phải:
- Hạn chế làm việc hoặc sinh hoạt trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời, đặc biệt là từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều.
- Khi bắt buộc phải làm việc và sinh hoạt dưới ánh nắng mặt trời phải dùng các biện pháp bảo vệ như che ô, đội nón hoặc mũ rộng vành, đeo kính râm, mang khăn che mặt và mặc quần áo màu tối bằng các chất liệu tự nhiên. Khi thật cần thiết thì dùng kem chống nắng có hệ số chống nắng- SPF (Sun protection factor) ít nhất là 15 nhưng không được lạm dụng quá và không dùng các mỹ phẩm không rõ nguồn gốc, xuất sứ hoặc mỹ phẩm tự chế.
- Khi làm việc có tiếp xúc với hóa chất, phóng xạ cần phải có biện pháp bảo vệ như đi găng, ủng, quần áo bảo hộ, kính, mặt nạ…
(St)