Phương pháp tọa thiền niệm Phật

Hoaibui2395 Hoaibui2395 @Hoaibui2395

Phương pháp tọa thiền niệm Phật

19/04/2015 01:50 AM
906


Tọa thiền tức là ngồi để tham cứu một vấn đề gì. Thế nên, tọa thiền không phải là một phương pháp chứng quả thành đạo, mà là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để cho tâm không loạn và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi thân mà không để ý đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú trọng hơn cả.



Tọa thiền niệm Phật

Trong bài tựa Phạm Vơng, Bồ tát giới có dạy rằng:
Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy
Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc.
Ngày nay dầu còn, khó bảo đảm ngày mai.

toathienniemphat.gif


Đại chúng! mỗi người nên nhứt tâm cần cầu tinh tấn: Chớ biến nhát trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ; ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham thiền, chớ để thời gian luống qua vô ích mà sau nầy phải ăn năn…”Nhưng phàm muốn làm việc ǵ cho được lợi ích, chúng ta cần phải “biết làm”; ở đây muốn y chỉ lời dạy: “nhiếp tâm niệm Phật, tham thiền”, niệm Phật tham thiền”, lẽ tất nhiên chúng ta phải biết làm sao để “nhiếp tâm”, niệm Phật, tham thiền cho trúng cách đúng phương pháp, tức là biết cách “tọa thiền niệm Phật”. Văy trước khi học về phần thật hành, chúng ta nên hiểu sơ qua về mục đích của phương pháp Tọa thiền.

A) Mục-đích của phương-pháp tọa-Thiền

Tọa thiền là một phương pháp rất thông dụng chẳng những trong đạo Phật mà ở ngoài đạo cũng vẫn có từ xưa.
Tọa thiền nghĩa là ngồi để tham cứu một vấn đề ǵ. Thế nên tọa thiền không phải là một phương pháp chứng quả thành đạo, mà là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để cho tâm không loạn và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi thân mà không để ư đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú trọng hơn cả.

B) Phương-pháp Tọa-Thiền

Dưới đây là phần thực hành mà ngài Hòa Thượng Vạn Đức dạy với tất cả sự kinh nghiệm mà ngái đă thâu hoạch từ nhiều năm. Phần nầy chia làm ba:

1. Điều-thân Thân lúc nào cũng làm duyên trợ cho Tâm, thế cho nên nếu thân có những cữ động thô thiển, khí lực sôi nổi, và lẽ tất nhiên tâm ư sẽ phù động, do đó khó mà nhập định được. Cho nên trước khi Tọa thiền, cần phải điều ḥa thân trước nhất. Vậy phải điều ḥa thân bằng cách nào:

a. Phải điều-dưỡng sự ăn uống.

Sự ăn uống đối với thân rất hệ trọng, v́ thường bệnh phát sanh do nơi sự ăn uống. Có những thực vật hạp với cơ thể người này lại không hạp với người kia và trái lại; dầu sao, không nên dùng những thứ có dầu mỡ nhiều, tránh những chất hăng, kích thích thần kinh như café đậm, rượu, trà đăm, thuốc hút v.v… mà chỉ nên dùng những món ăn sơ sài trong sạch.
Trước giờ tọa thiền, không nên ăn quá no mà chỉ ăn vừa đủ, v́ nếu ăn quá no sẽ làm mệt dạ dày, ngồi không yên ổn. Không ăn chiều lẽ tất nhiên là thích hợp đặc biệt với việc tọa thiền niệm Phật

b) Y-phục

Trước khi tọa thiền phải tắm rửa cho thân thể được sạch sẽ để tránh khỏi sự ngứa ngẩm trong ḿnh.
Sau đó, tiết lạnh th́ mặc áo ấm, trời nóng th́ dùng y phục mỏng mảnh rộng rải và sạch sẽ.
Đai lưng (lưng quần) lúc nào cũng phải nới rộng ra.
Những điều trên đây giúp cho sự hô hấp dễ dàng và không bị lay chuyển v́ thời tiết.

c) Giữ thân cho được ngay thẳng và vững vàng

(Nghĩa là làm thế nào mà khi quên nó, nó không nghiên ngă hay lay động). Muốn được như vậy, chỉ có cách duy nhất là ngồi,v́ đi, đứng hay nằm không thể đạt được hai mục đích vừa nói trên.
Nhưng nếu ngồi mà tḥng hai chân xuống, th́ khi quên, thân lại không vững; hơn nữa lúc ở trong nhà, thất, có bàn ghế giường v.v…th́ không nói chi, nhưng khi ra ngoài vườn tược đồng ruộng hay đến núi rừng để tọa thiền, khó t́m ra chỗ ngồi có thể tḥng chân xuống được dễ dàng .
Thế nên chỉ có cách rút chơn xếp bằng lại là giúp cho chúng ta ngồi ngay thẳng và vững vàng mà thôi.

d) Cách ngồi

Có nhiều cách ngồi mà hành giả cần phải chọn lựa cho thích hợp với ḿnh
Chơn.

1. Toàn già (cũng gọi là kiết già hay Kim Cang tọa)
Gát bàn chân trái lên đùi bên mặt, gát bàn chân mặt lên đùi bên trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.

2. Bán dà, có hai cách:
- Hàng ma tọa: gát bàn chân mặt trên đùi bên trái (như ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát) – Kiết tường tọa: gát bàn chân trái lên đùi bên mặt (như ngài Phổ Hiền Bồ tát).
-Trong ba cách ngồi, khi ngồi phải tập cho hai gối đồng sát xuống chiếu như nhau, hai mông cũng chịu đều như nhau th́ mạch máu không bị cấn tất không bị tê, cũng không nên dùng nệm quá dầy. Một điều nên để ư, là thường thường lúc ban sơ, khi vừa ngồi kiết già hay nghe một chân nặng một chân nhẹ. Để sửa chữa vào khuyết điểm đó, chỉ có cách là dùng hai tay chống xuống chỗ ngồi để nưng toàn thể thân lên và hạ bên chân hay mông nhẹ xuống trước, bên nặng xuống sau, đôi ba lần th́ hai chân hoặc hai mông sẽ đều, không c̣n cảm tưởng nặng nhẹ nữa.

Tay .
Hai bàn tay để ngửa, bàn tay mặt th́ đặt lên trên bàn tay trái, vừa sát bụng và để nhẹ trên hai bàn chân, hai đầu ngón tay cái đâu lại(Tam muội ấn).
Phương pháp để bàn tay như vậy, theo Cổ Đức nói, làm cho điện lực trong thân lưu thông đều đặn, không biến thoát ra ngoài và giúp cho tâm dễ an ổn.

Lưng —Tay chơn đều đâu vào đó rồi, phải lay chuyển thân thể độ ba bốn lần cho nó được ung dung và phải giữ xương sống cho ngay thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu cột xiêu th́ nhà đổ vậy.
Đầu, cổ — Đầu và cổ cũng phải giữ cho ngay, nhưng không được ngước thẳng quá.
Mắt — Mắt hơi nhắm lại, để chỉ c̣n thấy tướng trắng hay sáng sáng bên ngoài thôi; đừng mở hẳn sẽ tán loạn; mà cũng đụng nhắm hẳn sẽ bị hôn trầm.
Miệng — Miệng phải ngậm lại, chót lưỡi để trên chưn răng hàm trên, răng phải để cho thong thả, đùng cắn cứng lại, nhờ đó hơi thở sẻ nhẹ nhàng.

2. Điều Tức

Khi thân đă nghiêm chỉnh rồi, lúc bấy giờ hành giả mới bắt đầu thở ra nhẹ nhàng nhưng cho dài, tâm nghĩ tất cả ô trược trong thân đều tựu theo không khí mà ra ngoài hết .Đến khi hít vô, cũng phải nhẹ nhàng và cho dài, nghĩ bao nhiêu cái chi thanh tịnh ở bên ngoài đều vào trong hết.
Làm như vậy được hai ba lần hay đến năm bảy lần nếu cần, cho trong thân được khoan khoái.
Sau đó phải giữ hơi thở nhẹ nhàng thong thả, suông êm, dài ngắn cho quân b́nh.
Nên để ư, khi điều ḥa hơi thở hành giả thường gặp hai lỗi sau đây.

a) Phong tướng. Tức là hơi thở ra hít vào, nghe có tiếng gió, do v́ thở quá mạnh.

b) Suyển tướng, tức là tuy thở ra vào không nghe tiếng nhưng lại gấp rút hoặc rít sáp không thông.
Nếu khi ngồi tĩnh tọa mà thấy hai tướng trên đây, đó là triệu chứng tâm không được an định.
Nếu khéo điều nhiếp, dùng sổ tức thở ra hít vào thong thả, ít lâu sẽ thuần thục, tự nhiên hơi thở sẽ điều ḥa, huyết mạch được lưu thông, trong người sẽ được ung dung khoan khoái.
Thế nên điều ḥa hơi thở là một công phu rất hệ trọng đối với phép tịnh tọa.

3. Điều Tâm

Trước khi tọa thiền, hành giả có phát tâm trước, hoặc sổ tức, hoặc quán bất tịnh, hoặc niệm Phật v.v…
Nếu đă phát tâm niệm Phật, th́ hành giả phải nghĩ Ta bà ngũ trược, nhớp nhơ, là nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ, nơi thân và hiện cảnh, phải làm thế nào thoát ly cho được, tức là phải yểm ly sanh tử nơi Ta bà mà cầu sanh về Cực Lạc.
Hành giả nhớ ngay đến cảnh Cực Lạc thuần vui không kh���, có đủ thắng duyên thắng cảnh trợ lực cho hành giả mau thành Phật quả quảng độ chúng sanh, — đến đức Phật A Mi Đà tướng hảo quang minh, lúc nào cũng duỗi ḷng từ tiếp dẫn chúng sanh về Lạc Quốc.
Lúc bấy giờ hành giả khởi niệm câu dài : “Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo Sư A Mi Đà Phật “ rồi lần lần thâu ngắn lại c̣n sáu chữ “Nam mô A Mi Đà Phật” hay bốn chữ:“A Mi Đà Phật” lúc đầu niệm lớn, sau niệm thầm để nhiếp tâm cho nó an trụ vào đó. Khi niệm ra tiếng hoặc thầm, đều cần phải gắng cho tiếng nổi rơ trong tâm chẩm răi, tâm ư nghe rơ từng tiếng từng chữ, tức là “Quán trí hiện tiền” nếu không, tâm sẽ tạp niệm (tán loạn) hay ngủ gục(hôn trầm).Nếu tán loạn, không rơ, lơ là, hay khi hôn trầm muốn đến hành giả phải cử tâm ngay bằng cách chú ư đến câu niệm Phật.
Có khi hành giả cố gắng kềm tâm, nhưng tâm vẫn chạy và nếu tâm vẫn chạy măi, th́ có cách phải niệm Phật và nghĩ ở đầu hai ngón tay cái, đầu hai ngón chơn cái hoặc nghĩ ở nơi cái rún mà niệm.
Làm như vậy thần kinh hệ sẽ hạ xuống, tức cái tâm sẽ hạ xuống mà bớt tán loạn.
C̣n nếu bị hôn trầm, th́ phải nghĩ ở đỉnh đầu hay ở trán mà niệm th́ sẽ hết, v́ ư chí phấn khởi.
Hoặc hành giả có thể niệm theo phương pháp“Thập niệm kư số” Thập niệm kư số” là khi niệm Phật, phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần măi. Nhưng phải niệm trong ṿng mười câu mà thôi, không được hai mươi hoặc ba mươi câu, lại không được lần chuỗi v́ dùng tâm ghi nhớ. Có thể phân làm hai đoạn từ một đến năm, từ sáu đến mười. Hoặc c̣n thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười.
Cần để ư: niệm nhớ và nghe phải rơ ràng, vọng niệm mới không xen vào được.
Dùng phép này lâu sẽ được nhứt tâm.
Điều tâm là pháp môn tu chủ chánh. Nếu có sự biến chuyển nơi thân, không nên để ư đến, mà phải chuyên ǵn chánh niệm.

c) Phương pháp giải tọa (xả thiền)

Khi xả thiền, hành giả làm ngược lại tất cả, nghĩa là trước hết phải xả nơi tâm, kế xả nơi tức và sau cùng mới xả thân.
1.Xả Tâm. – Hành giả phải nhớ lại coi hiện giờ ḿnh ngồi chổ nào , nảy giờ ḿnh làm ǵì, nhớ coi ḿnh có bị tán loạn hay hôn trầm không, và mặc dầu có hay không, cũng vẫn hồi hướng công đức về tây phương để trang nghiêm Tịnh độ.
2.Xả Tức. – Sau khi xả tâm xong, hành giả mở miệng thở ra vài hơi thật dài để cho khí nóng trong người giảm bớt và để hồi phục lại trạng thái b́nh thường như trước khi tỉnh tọa.
3. Xả Thân. – Tâm, tức điều xả xong, lúc bấy giờ hành giả se sẽ rao động nơi lưng và cổ, khi mạch lạc chạy đều, từ từ duổi hai tay ra, lấy hai bàn tay xoa nhè nhẹ với nhau, rồi xoa lên mắt, kế từ từ mở mắt. Sau đó uốn lưỡi một vài lần và nuốt chút nước miếng.
Tay và mắt xả xong, đến lượt xả hai chân. Trước hết phải lấy hai tay xoa hai bắp vế, rồi tháo lần lần hai chân ra, thoa hai bắp chuối và hai bàn chân. Khi nghe hai bàn chân nóng hết rồi, hành giả chuyển động nhè nhẹ toàn thân rồi đứng dậy, đi tới đi lui.

D) Những điều cần để tọa thiền

có kết quả Hôn trầm, là một chướng trong việc tu thiền, thế nên thân phải bớt ngủ nghỉ. Phật dạy đầu hôm cuối đêm th́ tham thiền, nửa đêm th́ tụng kinh để tự tiêu tức, nhưng nếu ḿnh không kham nổi th́ nên bớt sự ngủ nghỉ. Ban đêm th́ chỉ nghỉ ba canh, từ 11 giờ đến 4 giờ sáng thôi, đó là lời dặn ḍ của Cổ đức vậy. C̣n nơi tâm th́ phải có sự điều nhiếp theo ba cách dưới đây: 1. Không niệm tham dục. 2. Không niệm sân hận. Nếu thực hành hai cách này mà không đắc lợi trên đường chánh định, hành giả phải kiểm điểm lại nơi tâm có sanh tội lỗi chi không, hằng ngày phải nói lời dịu dàng, ḥa nhă cho tâm lóng xuống, đối với người và vật, giữ tâm cho mát mẻ và luôn luôn nhẹ nhàng. 3. Ngoài giờ tĩnh toạ phải giữ câu niệm Phật không rời tâm. Tâm tương ứng với chánh định phát ra khinh an, trong thân sẽ thấy khoan khoái. Thân tâm hiệp nhứt, thân cảnh không hai, lúc bấy giờ hành giả ở trong định vắng lặng sẽ thấy thân tướng Phật, nghe Phật thuyết pháp và những cảnh giới nhiệm mầu không sao kể xiết… Đó chính là tướng niệm Phật thiện căn phát hiện do nơi công phu tọa thiền niệm Phật thành công vậy.





PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN NIỆM PHẬT
Chuẩn bị trước khi ngồi:

- Chọn nơi thoáng mát.
- Thân tâm thành kính, y phục trang nghiêm.
- Tư thế ngồi Kiết già hoặc Bán già (Có thể ngồi trên ghế)

Khi ngồi vững rồi thì động thân nhè nhẹ qua lại khoảng 3 đến 5 lần. Sau đó tới vai, rồi tới cánh tay, tới cổ, tới hai bàn tay xoay tròn qua lại 5 lần, đưa ra phía trước 3 lần rồi xoa cho hai bàn tay nóng lên áp vào mí mắt vuốt ra 3 lần. Lại xoa nóng bàn tay áp vào mí mắt vuốt xuống 3 lần. Ba lần vuốt ra, 3 lần vuốt xuống, xong lại xoa nóng để chà 2 bên Thái dương 8 lần, 2 bên tai 18 lần rồi đặt tay phải xuống đầu gối, tay trái xoa đỉnh đầu theo chiều kim đồng hồ 10 lần. Cuối cùng từ từ buông tay xuống, hai tay đặt trên hai bàn chân. Xong kiểm tra lại một lần cuối bằng cách khẽ động thân xem tư thế ngồi đã vững chưa...

- Khi thấy thân vững rồi thì đọc bài kệ:

1. Nếu ngồi Bán già thì đọc bài kệ:

                Bán Già phu tọa, (Chính thân đoan toạ)
                Đương nguyện chúng sinh,
                Thiện căn kiên cố,
                Đắc bất động địa.
-   Án phạ tất ra a ni bác ra ni ấp đà da sa ha ( 3 lần ).

2. Nếu ngồi Kết Già thì đọc bài kệ:

                Kết Già phu tọa,
                Đương nguyện chúng sinh,
                Tọa Bồ đề tòa,
                Tâm vô sở trước.
-   Án phạ tất ra a ni bác ra ni ấp đà da sa ha ( 3 lần ).

3. Nếu ngồi ghế thì phải chú ý, phải để thân ngay thẳng, không được dựa thân vào ghế.

- Đọc xong câu chú để trạng thái thân tâm thư giãn, thoải mái, đặt đầu lưỡi lên chân hàng răng trên rồi hít vào sâu bằng mũi, thở ra từ từ bằng miệng qua 2 kẽ chân răng. Lần đầu quán tưởng hít vào quán tất cả những khí lành ở bên ngoài đều theo hơi thở đi vào qua hai lỗ mũi, tới Đan điền; thở ra quán tất cả những trược khí trong cơ thể đều theo hơi thở và khắp các lỗ chân lông trên tấm thân tứ đại hư huyễn này mà ra sạch...

- Hơi thứ hai hít vào sâu, quán tưởng các công đức thù thắng (Bạch nghiệp) đêu theo hai lỗ mũi mà vào, trụ ở Đan Điền rồi từ từ thở ra, tưởng tất cả các phiền não nhiễm ô (Hắc nghiệp) đều theo hơi thở và khắp các lỗ chân lông trên toàn châu thân đều theo đó mà ra, không  chút ngăn ngại...

- Hơi thứ ba hít sâu, trụ nơi Đan Điền và quán tưởng từ nơi sinh thân này mà sinh ra được vô lượng công đức, tưởng hơi thở ra khắp thân mình có một vòng ánh sáng (Hào quang) bao bọc xung quanh, do công đức trì Giới (Niệm Giới) mà sinh ra...

- Hơi thứ tư hít sâu, trụ nơi Đan Điền và quán tưởng từ nơi sinh thân này mà sinh ra được vô lượng công đức, tưởng hơi thở ra khắp thân mình lại có một vòng ánh sáng (Hào quang) bao bọc xung quanh, do công đức tu tập thiền định và niệm Phật mà thành (Niệm Định)...

- Hơi thứ năm hít sâu, trụ nơi Đan Điền và quán tưởng từ nơi sinh thân này mà sinh ra được vô lượng công đức, tưởng hơi thở ra khắp thân mình lại có thêm một vòng ánh sáng (Hào quang) bao bọc xung quanh, do công đức tu tập trí tuệ mà sinh ra (Niệm Tuệ)...

Bấy giời nên thở nhè nhẹ, hơi thở bình thường không khoan (chậm) không gấp (nhanh). Biết hơi thở ra vào qua hai lỗ mũi, thấu suốt tới Đan Điền, thấy biết phồng - xẹp. Cứ lần lượt như vậy, hít vào thở ra đếm một, hít vào thở ra đếm hai... tuần tự đếm tới mười và lặp lại ( nếu trong khi đếm mà lãng quên không nhớ thì bỏ đi đếm lại từ một). Nếu người tâm tán loạn nhiều thì hít vào đếm một, thở ra đếm hai tuần tự cho tới mười rồi lại quay lại một... Hoặc muốn niệm Phật thì hít vào thở ra niệm Nam, hít vào thở ra niệm Mô, tuần tự cho tới A, Di, Đà, Phật...
   
Trong khi ngồi luôn phải thức tỉnh, giữ cho tư thế ngay thẳng không cúi quá, không ngửa quá, không để thân nghiêng bên phải, vẹo bên trái, hoặc đầu cúi xuống. Nói tóm lại thân trụ ngay thẳng như tường vách, thế tọa vững như Đại Hồng Chung(chuông) đặt ngồi vậy.
 
Khi ngồi nếu các chướng khởi lên như đau tức lồng ngực, mỏi hai bên sườn, thần kinh căng thẳng... bấy giờ nên kiểm tra lại xem thân có siêu vẹo không? lưng có bị khom không? có ngửa quá không? đầu có cúi xuống không? Dụng tâm có gấp không...? Nếu thấy lỗi ở chỗ nào thì phải từ từ điều chỉnh lại. Thân sai thì điều thân, tâm gấp thì buông thư thân tâm xuống, để thân tâm trong trạng thái tự nhiên thì bệnh sẽ khỏi. Còn như thấy ma cảnh hoặc thân mình bị châm trích đau đớn... thì phải nhất tâm niệm Phật hoặc trì chú, quán về Không, Vô tướng, Vô tác Tam muội... ma cảnh sẽ tiêu.

Khi muốn xuất thiền, trước tiên phải chuyển tâm dần dần từ trạng thái Tế sang trạng thái Thô bằng cách niệm thần chú vãng sinh để hồi hướng cho Tam đồ Lục đạo. Niệm xong đọc bài kệ xuất thiền :
               
                Xả già phu tọa,
                Đương nguyện chúng sinh,
                Quán chư hạnh pháp,
                Tất quy tán diệt.
 
Sau đó khe khẽ cử động thân, vai, cổ, đầu. Cử động thân, vai, cổ, đầu mạnh hơn một lần nữa rồi tới hai bàn tay và xuất thiền. Khi xuất thiền không được đứng dậy đi ngay, mắt cũng không được mở ngay. Phải từ từ đưa chân xuống, cử động thân, vai, cánh tay, cổ, bàn tay mạnh hơn một lần nữa rồi mới xoa hai bàn tay cho ấm, lấy ức hai bàn tay áp vào mí mắt vuốt ra 3 lần. Lại xoa nóng bàn tay áp vào mí mắt vuốt xuống 3 lần. Ba lần vuốt ra, 3 lần vuốt xuống, xong lại xoa nóng để chà 2 bên Thái dương 8 lần, 2 tay xoa 2 tai 18 lần ( khi này mắt mới từ từ hé mở )rồi đặt tay phải xuống đầu gối, tay trái xoa đỉnh đầu theo chiều kim đồng hồ 10 lần rồi vuốt xuống sau gáy. Sau đó đưa hai tay xoa cho cơ thể ấm lên. Bắt đầu từ hai cánh tay, vai, lưng, đùi, chân, lấy hai bàn chân chà sát vào nhau làm cho ấm lên...sau đó mới từ từ đứng dậy. Nếu có thời gian thì đi kinh hành, niệm Phật khoảng 15 phút trở lên là tốt nhất.



Nói tóm lại khi thể nhập Thiền định phải từ Thô vào tế, khi xuất thiền phải từ Tế ra thô. Chẳng thể khinh xuất; nếu khinh xuất thì sẽ mang họa lớn. Từ chỗ phát tâm chí thành cầu đạo giải thoát mà ngược lại lại bị trói buộc bởi những sự sai lầm không đáng có thì thật là đáng tiếc. Người học Phật chúng ta chẳng đáng quan tâm ư!  Người tu tập thiền định có thể chia ra nhiều tầng lớp khác nhau:

- Người tu tập thiền định để cầu giải thoát, lấy kinh nghiệm thực tế để phổ cập, tận độ chúng sinh trên mọi căn cơ...

- Người tu tập thiền định là để cầu cho mình có một sức khoẻ dẻo giai, đầu óc minh mẫn, trí tuệ sáng suốt...

- Người tu tập thiền định là để cầu chữa một chứng bệnh nan y nào đó mà các loại thuốc thang, kể cả nền y học hiện đại hiện nay cũng  không chữa được. Nếu chúng ta lập ra một thời khoá công phu nhất định và nỗ lực tu tập thiền định đến một mức độ nào đó thì bệnh  sẽ dần khỏi.

- Người tu thiền định là để mong cầu bản thân thành đạt một ý nguyện chân chính nào đó...

Ngoài ra chúng ta phải khéo dùng trí tuệ để quán sát, pháp nào nên thủ, pháp nào nên xả, phải đúng với nhân duyên - thời tiết thực tế... Phải lánh xa sự vọng cầu... được như vậy Phật giáo mới gọi là "Thiền Định Chân Chính".

Phương Thức Tọa Thiền Và Bài Niệm Phật





Trước tiên vào tu Tọa Thiền phải niệm Phật. Hành giả rửa tay, rửa mặt, nếu tắm càng tốt, xong đâu đó đốt hương lên bàn thờ Phật bái lạy 3 lạy. Xong vào nơi Tịnh Cốc hay phòng riêng.

Ngồi bán già, hai bàn chân để ngửa, tay phải để dưới, tay trái đặt lên trên, hai cánh tay đồng duỗi thẳng, đặt hai bàn tay ngửa dưới rún giữa nhượng chân của bán già. Ngồi yên Tâm Thanh Tịnh giây lát, bắt đầu niệm Phật mỗi câu 10 lần, lúc chưa thuộc thì niệm mỗi một danh hiệu Nam Mô Tịnh Vương Phật độ 15 phút. Niệm bằng Tâm Niệm tức là niệm không ra tiếng, niệm bằng tư tưởng niệm. Niệm xong bái một bái.

B À I N I Ệ M P H Ậ T

- Nam Mô Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
- Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật
- Nam Mô Giáo Chủ Hiện Tại Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
- Nam Mô Bảo Tạng Phật
- Nam Mô Tịnh Vương Phật.
- Nam Mô Pháp Tạng Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
- Nam Mô Đa Bảo Như Lai.
- Nam Mô Hiện Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
- Nam Mô Di Lạc Tôn Phật.
- Nam Mô Tối Thắng Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Nam Mô Đại Nhựt Như Lai Phật.
- Nam Mô Diệu Âm Phật.
- Nam Mô Hộ Pháp Bồ Tát Đồng Thanh Tương Ứng Nguyện
- Nam Mô Chư Long Thần Chư Hộ Pháp Bồ Tát Ma Ha Tát Nguyện.

*******

* Chú ý: Tọa Thiền niệm “Nam Mô Tịnh Vương Phật” bảy (7) lần. Niệm rất chậm, hơi thở đều theo tâm niệm.


• Trang Trí Chỗ Ngồi: Hành giả phải ngồi trên một tấm nệm, ngồi trên ván hay trên giường ngủ của mình có nệm càng tốt, chớ nên ngồi dưới đất không có nệm. Nếu hành giả có cốc riêng, phòng riêng càng tốt. Nên nhớ: Nhà có sẵn bàn thờ Phật thì đốt hương bàn thờ, bằng chưa có bàn thờ Phật thì trước khi tọa Thiền bái ba bái sau đó mới ngồi niệm Phật.

• Tọa thiền: Khi niệm Phật mặc áo rộng hoặc đồ bà ba mỏng. Niệm Phật xong bái một bái như đã nói trên. Bắt đầu ngồi Bán Già. Trước khi ngồi nên thay áo, mặc quần cụt, dây lưng nơi quần nên nới rộng, vì lưng quần bị thắt chặt lúc ngồi, các pháp chẳng thông hay bị đau lưng, hay bị đau ruột về sau. Pháp môn Thiền Tọa phải cho thong thả thoải mái. Lúc chỉnh trang xong Hành giả tọa Thiền tỉnh tâm yên lặng để nhập Thiền cho đạt đến dứt tư tưởng.

• Thế Nào Là Nhập Thiền:Nhập Thiền không phải cái hồn của Hành Giả nhập hết vào nơi Thiền mới gọi là nhập. Cũng không phải tọa Thiền vắng bặt không còn nghe gì ở bên ngoài mới gọi là nhập Thiền. Nhập Thiền không phải như là xác chết mới gọi là nhập Thiền đâu. Những quan niệm trên đều là sai hết, nên bãi bỏ ý định mong cầu trên.

Nhập Thiền hành giả tựa như say, như ngật ngật, thân mình lâng lâng, bồng bềnh nhè nhẹ tựa như ngồi trước mây gió hay giữa hư không, phần bên ngoài vẫn nghe tiếng động nhưng bên trong gìn giữ tịch tịnh. Khi hành giả gặp diễn cảnh nơi Thiền, cảnh ấy lâu mau, rõ hay chưa rõ đó là công phu tịch tịnh chưa vững. Có Hành giả không thấy chi cả thì lấy mức tịch tịnh lâng lâng, bồng bồng say Thiền. Các vị này nên cố gắng chớ nên thối chí. Rồi đến thời công phu đầy đủ vẫn đạt đến chí nguyện.

Tọa Thiền phải lấy Kiên Dũng làm đích không khác nào kẻ đi đường xa, cứ đi mãi nó sẽ đến. Khi thân chưa điều hòa, tâm chưa điều hòa, khẩu chưa điều hòa, nên có đêm công phu thoải mái, có đêm lại trầm đen tối. Phải kiên dũng, quyết tâm bền chí, quyết lòng qua bờ bến Giác. Vì tâm chí của Bậc tu Thiền như vậy nên đêm nào chán chính là đêm cố gắng đánh đuổi con Ma Lười Trễ.

Hành giả nên xem xét tùy theo thời tiết nóng lạnh, chỗ ngồi tọa Thiền bị nóng có thể cởi áo, lúc lạnh thì mặc áo


Cách ngồi thiền đúng phương pháp
Cách ngồi thiền chữa bệnh
Cách ngồi thiền định đúng phương pháp
Dạy thai nhi bằng thiền và hát ru
Thiền và tập trung tư tưởng




(st)
Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý