Triệu chứng khi bị uốn ván có thể bạn chưa biết

Nhanluu1294 Nhanluu1294 @Nhanluu1294

Triệu chứng khi bị uốn ván có thể bạn chưa biết

19/04/2015 11:53 AM
397

Các triệu chứng và cách phòng ngừa bệnh uốn ván là gì, chúng ta cùng tìm hiểu để phòng tránh nhé!

Uốn ván là gì ?

Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra.


Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ…

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván ( Clostridium tetani ) gây ra.  Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.

Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Triệu chứng bệnh uốn ván

Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng.

Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt (phần lớn không sốt). Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn.

Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu: trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị.

Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao.

Nguyên nhân gây bệnh uốn ván

Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực  khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng  gây bệnh uốn ván.

Những người có nguy cơmắc cao :

-       Người làm vườn

-       Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm

-       Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại.

-       Công nhân xây dựng các công trình.

-       Bộ đội và thanh niên xung phong.

Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh:

Vi khuẩn C.tetani là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới: trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như: metronidazol, penicillin…

Điều trị bệnh uốn ván

Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật.

- Dùng kháng sinh: tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau: penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra.

- Dùng kháng độc tố uốn ván: để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.

- Kiểm soát các cơn co cứng: Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây: diazepam được sử dụng phổ biến: lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở.

- Điều trị hỗ trợ: Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa.

- Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động: Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.


XỬ LÝ TỐI VẾT THƯƠNG ĐỂ PHÒNG BỆNH UỐN VÁN


Từ đầu năm đến nay, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đã tiếp nhận và điều trị cho hơn 40 trường hợp bị uốn ván. Ðáng nói, hầu hết các ca nhập viện đều nặng, bị hôn mê và co giật toàn thân...

Cấp cứu vì những vết thương nhỏ

Theo hồ sơ bệnh án của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, chị N.N.L (Bình Lục - Hà Nam) bị tổn thương rách da, bầm tím ở cằm do trượt ngã, chủ quan cho rằng vết thương sau vài ngày sẽ khỏi và liền da nên không đi  khâu và tiêm huyết thanh kháng uốn ván mà chỉ băng vết thương lại. Tuy nhiên, sau 7 ngày chị có dấu hiệu co cứng toàn thân, co giật...  Người nhà vội đưa chị đến bệnh viện, tại đây các bác sĩ kết luận chị bị uốn ván do nhiễm trùng vết thương.

Không giống như trường hợp chị L., anh T.D.H (Từ Sơn - Bắc Ninh) bị gạch rơi vào ngón chân cái gây bầm tím, xây xước da. Sau 10 ngày sau, anh xuất hiện triệu chứng cứng hàm, khó nuốt, khó há miệng,… Bệnh nhân được đưa đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng hôn mê sâu, người căng cứng và giật liên hồi. Các bác sĩ kết luận bệnh nhân bị uốn ván.
 Điều trị tích cực cho bệnh nhân mắc uốn ván tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương. Ảnh: Ngọc Dương

Vì sao đã tiêm huyết thanh kháng uốn ván vẫn mắc bệnh?

Các chuyên gia y tế cho rằng, nguyên nhân đã tiêm huyết thanh kháng uốn ván nhưng vẫn mắc bệnh vì huyết thanh kháng uốn ván là kháng thể từ bên ngoài đưa vào nên chỉ có tác dụng bảo vệ trong khoảng một tuần, nếu người bệnh chưa tiêm vaccin phòng uốn ván lần nào, sức đề kháng kém khi huyết thanh kháng uốn ván hết tác dụng thì người bệnh vẫn bị mắc. Hơn nữa, nha bào uốn ván tồn tại rất nhiều trong môi trường đất, cát, phân súc vật và sống rất dai dẳng. Khi xâm nhập được vào vết thương, vết bầm dập trên cơ thể người, nha bào sẽ phát triển thành vi khuẩn uốn ván và các vi khuẩn này sẽ tiết ra độc tố gây bệnh uốn ván. Vi khuẩn uốn ván sinh sôi nảy nở và tiết ra độc tố bên trong vết thương mà không gây sưng nề ngay cả khi vết thương khô miệng. Chính điều này nhiều trường hợp chủ quan, chỉ sát trùng vết thương mà không đến cơ sở y tế để khám và điều trị.

Bệnh khởi phát sau chấn thương

Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của vi khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) gây ra.  Nha bào uốn ván có khắp nơi trong đất cát, bụi, phân trâu, bò, ngựa và gia cầm, cống rãnh… Bệnh thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng,  phẫu thuật, sinh đẻ... Khi mắc bệnh uốn ván gây nhiễm độc hệ thần kinh vận động làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và co giật liên tục.

Bệnh khởi phát sau chấn thương, thường là 7-10 ngày. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng. Nếu xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn. Bệnh có thể gây tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Ai cũng có nguy cơ mắc bệnh uốn ván nhất là trẻ sơ sinh (hay bị uốn ván rốn), đặc biệt là những trẻ sinh tại nhà, không được chăm sóc y tế, những người chưa tiêm vaccin phòng bệnh uốn ván. Ngoài ra, những người làm vườn, làm việc ở các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, người dọn vệ sinh cống rãnh, công nhân xây dựng... đều có nguy cơ mắc cao.

Cần xử lý tốt vết thương

Do vi khuẩn uốn ván chỉ gây bệnh khi vết thương bị dập nát, vết thương do dụng cụ lao động và những vật gỉ, bẩn gây ra, vết thương nhiễm trùng, vết thương hở, vết thương bị băng kín lâu gây thiếu ôxy... Bởi vậy, việc cần làm khi bị tổn thương là xử lý ngay vết thương bằng cách giải phóng hết dị vật trong vết thương (như bùn, đất, cát, mảnh sành, đinh, gai...), rửa vết thương bằng xà phòng nhiều lần, sát khuẩn bằng dung dịch như cồn 70 độ, ôxy già hoặc dung dịch bêtadin..., sau đó đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế để được tiêm kháng huyết thanh chống vi khuẩn uốn ván và điều trị theo phác đồ. Lưu ý, không nên băng kín vết thương lâu ngày, thường xuyên vệ sinh và sát khuẩn vết thương.

Phòng bệnh hơn chữa bệnh

Để phòng bệnh uốn ván, tốt nhất nên tiêm đầy đủ các mũi vaccin phòng bệnh. Hiện Chương trình tiêm chủng mở rộng đã có vaccin 5 trong 1 (phòng bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan B và viêm phổi, viêm não Hib) cho trẻ từ 2 - 4 tháng tuổi, trẻ sẽ được tiêm 3 mũi, mũi đầu tiên từ tháng thứ 2, mỗi mũi cách nhau 1 tháng. Sau đó,  từ 5 - 10 năm tiêm nhắc lại một liều; Trong lao động phải hết sức tránh không để bị tổn thương nhất là các loại tổn thương sâu, kín, bẩn như giẫm phải đinh, gai, chấn thương phần mềm ở nơi bùn lầy của chuồng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nhà vệ sinh,...; Vệ sinh môi trường sạch sẽ như  nạo vét các chất thải, chất bùn, khơi thông cống rãnh để tránh ứ đọng không cho vi khuẩn và nha bào uốn ván phát triển.


BỆNH UỐN VÁN VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA HIỆU QUẢ


Hai con của tôi đã được tiêm hủng hồi vòn nhỏ (tiêm chủng 6 loại vaccin) trong đó dường như đã có chủng ngừa uốn ván (tê ta nốt) . như vậy việc chủng ngừa đó đến bây giờ có còn tác dụng không? nếu còn thì nếu có trầy sướt, hoặc thị thương thì có cần phải tiêm chủng ngay sau khi bị thương không?. Đó là trường hợp chủng ngừa khi còn nhỏ, còn trường hợp không chủng ngừa hồi còn nhỏ, thì bây giờ nếu bị thương thì tất nhiên là phải chích ngừa, thế nhưng nếu sau đó lại bị thương nữa, thì lần sau có cần phải chích ngừa nữa không? Xin cảm ơn và kính chào quý vi.

(Nguyễn Đức Nhuệ)

Trả lời:

Xin trả lời vấn đề bạn cần quan tâm về bệnh uốn ván cũng như văcxin phòng bệnh uốn ván như sau:
1/ Bệnh uốn ván là bệnh gây nên do trực khuẩn gram (-) có tên là Clostridum tetani, bệnh xuất hiện do vết thương bị nhiễm nha bào uốn ván. Trong cơ thể, nha bào phát triển thành vi khuẩn và sinh sản ra chất độc (độc tố). Điều kiện yếm khí thúc đẩy vi khuẩn phát triển, vì thế với những vết thương có nhiều nguy cơ có nha bào uốn ván như vết thương do vật bằng sắt thép gỉ, vết thương bẩn, có tiếp xúc với đất cát (vì chủ yếu nha bào có nhiều trong đất và phân) thì sau khi làm sạch, nếu băng kín vết thương sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn uốn ván phát triển.
Độc tố uốn ván xâm nhập vào các sợi thần kinh ngoại vi của hệ thần kinh trung ương. Tại đây, nó ức chế sự giải phóng các chất ức chế thần kinh như glycin, GABA gây nênn các triệu chứng co cứng cơ, co giật do tăng trương lực cơ, liệt cứng và bệnh nhân có thể chết do suy hô hấp.
Miẽn dịch trong bệnh uốn ván.
Lịch sử tiêm uốn ván rất quan trong trong việc xử lý các vết thương và phòng bệnh uốn ván.
 Lịch tiêm văcxin uốn ván như sau:
1/ Văcxin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) được tiêm tổng cộng 5 liều như sau:
Vào lúc 2 tháng tuổi; 4 tháng tuổi; 6 tháng tuổi; 15 – 18 tháng tuổi và 4 – 6 tuổi. Nên tiêm cho trẻ dưới 7 tuổi.
2/ Td (Giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp) nên tiêm cho người trên 7 tuổi như sau:
Tiêm vào 14-  16 tuổi, cứ sau 10 năm tiêm nhắc lại một lần.
 
Đối với các vết thương thì tuỳ thuộc vào lịch sử tiêm và độ tổn thương mà căn cứ tiêm như sau:
3.1. Nếu vết thương sạch, nhỏ, trong vòng 6 giờ và sâu không dưới 1cm, không bẩn:
- Nếu không chắc chắn hoặc tiêm chưa đầy đủ (nhỏ hơn 3 liều) (1): Chỉ dùng Td.
- Tiêm đầy đủ (3 hoặc hơn 3 liều) và mới tiêm (2): Không tiêm gì cả, để hở vết thương.
- Tiêm đầy đủ nhưng trong vòng 5 năm đến 10 năm kể từ lần tiêm gần nhất (3): không tiêm gì cả, chỉ để hở vết thương.
- Tiêm đầy đủ, nhưng lần tiêm gần nhất cách đây 10 năm (4): tiêm Td.
3.2. Nếu vết thương có đất, nước bọt, phân, vết thương xuyên thủng, nát, bị cắn, trên 6 giờ, sâu trên 1cm .
- Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (1): Tiêm Td và TIG ở hai vị trí khác nhau.
- Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (2): Không dùng gì cả.
- Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (3): Chỉ dùng Td
- Nếu lịch sử tiêm ở trường hợp (4): Chỉ dùng Td
Ghi chú:
-         Td là giải độc tố uốn ván cùng với giải độc tố bạch hầu liều thấp.
-         TIG là globulin miễn dịch chống uốn ván, tạo ra miễn dịch thụ động chống độc tố uốn ván.
-         Khi tiêm Td và TIG nên tiêm ở hai vị trí khác nhau, nếu không globulin miễn dịch sẽ gắn với giải độc tố và cả hai mất tác dụng.
Hy vọng thông tin cung cấp sẽ làm hài lòng bạn.



Nguyên nhân bệnh uốn ván
Bé bị uốn ván sơ sinh
Tiêm phòng khi mang thai
Khi em bé đi tiêm phòng và những điều cần lưu ý
Có nên tiêm phòng trước khi mang thai hay không


(ST)

Hỏi đáp, bình luận, trả bài:
*địa chỉ email của bạn được bảo mật

Hot nhất
Top xink
Bộ sưu tập
Chợ xink
Thanh lý